Showing posts with label Cội nguồn dân tộc. Show all posts
Showing posts with label Cội nguồn dân tộc. Show all posts

Nhân ngày giỗ tổ Hùng Vương tìm hiểu về nguồn cội

Unknown | 6:34:00 PM | 0 comments

Những ngày này hàng vạn người người từ các vùng miền trong nước kéo nhau lên Đền Hùng (Phú Thọ) nơi được coi là "đất tổ" của Việt Nam. Đó là điều bình thường nếu cho rằng dân tộc nào cũng có đất tổ để mà thờ cúng. Nhưng sẽ là điều không bình thường khi người dân không thực sự hiểu biết và không tin vào ông tổ của mình. Vẫn biết đây  là một chủ đề vô cùng khó và phức tạp, thậm chí là "nhậy cảm" để bàn luận. Tuy nhiên, không thể làm ngơ trước sự thật là trong khi đại đa số người dân mặc nhiên rằng Đền Hùng là đất tổ thì ngày càng có nhiều người, nhất là giới trẻ, hoài nghi về lịch sử nguồn cội, thậm chí không ngần ngại đem ra đùa tếu về truyền thuyết các vua Hùng sao có 18 đời mà sống đến gần 5000 năm(?). Lại có người cho rằng "người Việt đẻ ra người Trung Quốc" trong khi người khác cho rằng "người Việt là từ Trung Quốc mà ra", v.v... Rõ ràng còn quá nhiều "góc khuất" trong lịch sử dân tộc chưa được làm sáng tỏ? Bài viết nầy  là một ví dụ.

 Để góp phần lý giải những khúc mắc nêu trên, Bách Việt xin mạn phép đăng lại một bài viết của GS.TSKH Hoàng Tuấn, Giám đốc Trung tâm Unesco, chuyên gia nghiên cứu về văn hóa phương Đông dưới đây.    

                           Văn minh Việt cổ “bị đánh cắp” như thế nào?

Kienthuc.net.vn:  GS.TSKH Hoàng Tuấn, Giám đốc Trung tâm Unesco, chuyên gia nghiên cứu về văn hóa phương Đông đã tìm ra những chứng cứ chứng minh về những phát minh lý thú của người Việt trong thời kỳ dựng nước bị kẻ xâm lược cố tình xóa bỏ và đánh tráo. Đó là nền văn hóa nhân bản - là nền văn minh "Lịch toán - Nông nghiệp"...
Nước Việt có trước thời Hùng Vương
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của sử gia đời Trần là Lê Văn Hưu sau này được Ngô Sĩ Liên đời Lê biên soạn lại cho đến cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim thời Pháp thuộc và các bộ Lịch Sử Việt Nam của nhiều tác giả Viện Sử Học thời hiện đại thì: Nước ta được thành lập từ thời Hồng Bàng, với vị vua đầu tiên là Kinh Dương Vương vào năm Nhâm Tuất, tức năm 2879 trước Công nguyên, tính đến năm 2013 này thì đã 4.892 năm.
Sau Kinh Dương Vương là 18 đời các Vua Hùng nối tiếp, với tên nước là Văn Lang. Nước Văn Lang thời đó rộng lớn, phía Bắc là miền đồng bằng phì nhiêu thuộc lưu vực sông Dương Tử giáp Hồ Động Đình, phía Nam giáp Lâm ấp (Chiêm Thành cũ), Tây giáp Ba Thục, Đông giáp biển Đông. Ngay tên Kinh Dương Vương cũng đã mang ý nghĩa rõ ràng về "vua của hai vùng đất rộng lớn là châu Kinh và châu Dương cổ" - nay đã thuộc Trung Quốc.
Nhiều người còn nghi ngờ về thời kỳ lập nước xa xôi trên với lý do duy nhất là 18 đời vua Hùng không thể kéo dài đến hàng ngàn năm (mỗi đời vua trong các Triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn sau này cũng chỉ từ 15 - 30 năm). Thời các vua Hùng nếu mỗi đời kéo dài đến 50 năm thì 18 đời Hùng Vương cũng chỉ là 900 năm. Như vậy, thời Hùng Vương kéo dài đến hàng ngàn năm là hoang đường!
Tuy nhiên, nếu xét thời gian chỉ ngắn ngủi như trên thì không phù hợp với nhiều hiện tượng lịch sử bành trướng xâm lược của Đế quốc Hán Mông xưa. Vì vậy, 18 đời vua Hùng chỉ là 18 chi họ Hùng Vương, mỗi chi gồm nhiều vị nối tiếp nhau cai trị đất nước, đều gọi là đời Hùng Vương thứ nhất, hoặc thứ hai... Nếu chi họ đó không có con trai hay người tài nối vị thì dòng họ gần kề sẽ lên nối ngôi và được gọi là đời Hùng Vương thứ ba hay thứ tư...
Điều này phù hợp với thời đại Thái cổ của Tổ tiên xưa: Người đứng đầu các bộ lạc thời "săn bắn và thuần hóa súc vật" đều được gọi là Phục Hy; người đứng đầu các bộ lạc thời "nông nghiệp đầu tiên" đều được gọi là Thần Nông. Vì vậy, thời Phục Hy và Thần Nông, mỗi thời kỳ đều có nhiều vị đứng đầu cùng tên nối tiếp nhau.
Tiếp đến thời Hùng Vương cũng thế: Thời Hùng Vương thứ nhất hay thứ hai, thứ ba... cho đến thứ 18, mỗi đời đều gồm nhiều vị vua Hùng. Thời gian như thế mới phù hợp với nhiều hiện tượng lịch sử liên quan đến dân tộc Việt cổ mà các sử gia Trung Quốc sau này cũng đã ghi.
Tranh minh họa. 
Nước Văn Lang được thành lập dưới thời Kinh Dương Vương chắc chắn là vào thời kỳ nền nông nghiệp đã phát triển khá mạnh vì thời đó đã có nền lịch toán vững chắc để phục vụ nghề nông.
Tuy nhiên, đất nước rộng lớn của cư dân Bách Việt xưa - từ khi lập nước - đã liên tục suốt hàng ngàn năm bị dân du mục Hán - Mông thiện chiến, giỏi cưỡi ngựa, bắn cung, ở phía Bắc sông Hoàng Hà xâm chiếm và bị thu hẹp cho đến khi chỉ còn lại phần đất phía Nam bao gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và đồng bằng Bắc bộ cho đến Đèo Ngang xưa và cả vùng đất còn lại này lại bị dân Hán - Mông đô hộ thêm một ngàn năm nữa.
Trong suốt nhiều ngàn năm liên tục bị đánh phá và bị đô hộ, nền văn hóa nông nghiệp xưa cũng bị xóa sạch vết tích. Tuy nhiên, những tinh hoa của nền văn hóa nông nghiệp đó thì không thể xóa hết và được kẻ xâm lược trị vì tiếp thu và biến thành nền văn hóa chính quốc. Nền văn hóa Khoa Đẩu xưa - mà lịch sử cổ còn ghi - cùng nền văn hóa kế thừa Khoa Đẩu là nền văn hóa Việt Nho cũng bị xóa bỏ. Phần tinh hoa không xóa nổi thì biến thành nền văn hóa Hán Nho của chính quốc.
Vua Hùng và các quân Lang. 
Người Việt nghiên cứu Vũ trụ từ khi ra đời
Những cứ liệu còn ghi trong lịch sử Trung Quốc chứng tỏ lịch sử lâu đời của Việt Nam và chính người Việt là người có nhiều phát minh vĩ đại: Nghiên cứu vũ trụ, lịch số... trong đó, lịch rùa chứng minh Việt Nam ra đời trước Trung Quốc. Cổ sử Trung Quốc viết: "Vào thời vua Nghiêu (năm 2357 trước CN - tức trước khi nước Trung Hoa ra đời rất lâu; sau khi nước Văn Lang được thành lập 522 năm), có sứ giả Việt Thường (1) đến Kinh đô tại Bình Dương (phía Bắc sông Hoàng Hà - tỉnh Sơn Tây ngày nay) để dâng hai con Thần Quy, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa Đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau...".
Vua Nghiêu sai người chép lại và lưu vào "tàng thư" gọi là "Lịch Rùa" (2). Sách "Thông Chí" của Trịnh Tiều xưa cũng đã ghi rõ về việc Thị tộc Việt Thường tặng lịch Rùa cho vua Nghiêu. Nếu tính từ năm thành lập nước Văn Lang đến nay thì lịch rùa chắc chắn cũng đã có từ gần 5.000 năm trước. Tại sao vào thời xa xưa đó mà người Việt Thường lại có thể giải thích được "việc trời đất từ khi mới mở đến sau này"? Rõ ràng họ đã có một nền văn minh "lịch toán" rất phát triển. Vì sao? Vì đó là yêu cầu của nền nông nghiệp đã được hình thành từ lâu đời (nghề canh tác lúa nước). Để dự báo thời tiết cho nông nghiệp bắt buộc họ phải phát triển lịch toán.
Và cơ sở của "Lịch Toán" này chắc chắn đã được khắc trên mai rùa đem sang tặng vua Nghiêu để cầu bang giao. Vì thế mà cổ sử Trung Quốc mới ghi lại là "... trên lưng rùa khắc chữ Khoa Đẩu ghi việc trời đất từ khi mới mở trở về sau này". Như vậy là người Việt Thường đã nghiên cứu vũ trụ rất sớm, đã đi sâu tìm hiểu vũ trụ từ khi mới sinh thành và đã đem những hiểu biết đó để làm lịch phục vụ nông nghiệp. 
(1) Việt Thường: Ngay tên Việt Thường mà thời vua Nghiêu gọi tên nước Văn Lang xưa cũng thể hiện "dân tộc trồng lúa nước". Theo cụ Nguyễn văn Tố (trong Sử ta so với sử Tầu) thì Việt Thường là tên để chỉ cái "xiêm" của người Việt cổ trồng lúa nước, vì chưa có bang giao, người Tầu xưa (dân Hán - Mông) chưa hiểu rõ nên gọi luôn tên dân mặc "xiêm" là tên nước. Tên Việt Thường xuất hiện từ đó. Về sau khi đã có chữ viết, các nhà chép sử buổi sơ khai cứ theo cách gọi cũ ghi tên Việt Thường để chỉ vùng đất phát triển nhất của dân Bách Việt.


(2) Lịch rùa: Lịch đã được khắc trên mai rùa mang sang cống vua Nghiêu chỉ có thể là hai bảng Âu Đồ và Lạc Thư - cơ sở của Lịch toán xưa - mà sau này người Trung Quốc đã đổi tên gọi là Hà Đồ và Lạc Thư cho hợp với sự giải thích hoang đường và thần bí của họ. Hai bảng Âu Đồ và Lạc Thư chính là cơ sở của Lịch Toán Can Chi đã được hình thành từ thời cổ đại và đã được sử dụng trong các nước Á Đông cho đến tận ngày nay.
GS.TSKH Hoàng Tuấn (Giám đốc Trung tâm Unesco, chuyên gia nghiên cứu về văn hóa phương Đông)
http://kienthuc.net.vn/di-san/van-minh-viet-co-bi-danh-cap-nhu-the-nao-264317.html

Giới thiệu sách: Nền văn minh Việt cổ

Unknown | 6:11:00 PM | 0 comments

GS.TSKH Hoàng Tuấn

Với mong muốn “góp phần nhỏ bé của mình để khôi phục lại một phần nền văn minh Việt cổ – công lao của tổ tiên xưa – hy vọng trường tồn trong lòng dân tộc Việt hiện đại”, GS.TSKH Hoàng Tuấn đã viết cuốn “Nền văn minh Việt cổ” (NXB Văn học – 2013), trong đó ông cho rằng cư dân vùng Đông Nam Á- trong đó có dân tộc Việt cổ ở lưu vực sông Hồng, sông Mã hiện nay - đã là chủ nhân vùng đất này từ rất lâu đời.

Họ đã sinh sống không những chỉ ở đồng bằng sông Hồng, sông Mã và ven biển Bắc Bộ hiện nay mà đã là chủ nhân của cả vùng đồng bằng các con sông lớn là Dương Tử và Hoàng Hà xưa. Thời gian xa xôi đó tuy chưa hình thành xã hội nhưng những bộ lạc Bách Việt đã di thực lên khắp các vùng đồi núi sát các triền sông lớn trên.

Dân tộc Việt cổ đó đã hình thành nền văn hóa “Việt Nho cổ”. Tiêu biểu nhất là tư tưởng “Triết học Dịch” dựa trên hai bảng số Âu Đồ và Lạc Thư cổ cùng nền “Lịch Toán Can Chi” phục vụ nông nghiệp.

Tia Sáng xin giới thiệu phần Nhập đề cuốn sách đó.

* Theo Đại Việt Sử Ký toàn thư của sử gia đời Trần là Lê Văn Hưu, sau này được Ngô Sĩ Liên đời Lê biên soạn lại thì, nước ta dựng nước từ thời họ Hồng Bàng, với vị vua đầu tiên là Kinh Dương Vương vào năm Nhâm Tuất, tức năm 2879 trước Công nguyên, tính đến năm 2013 này thì đã 4892 năm. Sau Kinh Dương Vương là 18 đời các vua Hùng nối tiếp, với tên nước là Văn Lang. Nước Văn Lang thời đó rộng lớn, phía bắc là miền đồng bằng phì nhiêu thuộc lưu vực sông Dương Tử giáp Hồ Động Đình, phía nam giáp Lâm Ấp (Chiêm Thành cũ), Tây giáp Ba Thục, Đông giáp biển Đông. Ngay tên Kinh Dương Vương cũng đã mang ý nghĩa rõ ràng về “vua của hai vùng đất rộng lớn là châu Kinh và châu Dương cổ - nay đã thuộc về Trung Quốc.”

Nhiều người còn nghi ngờ về thời kỳ lập nước xa xôi trên với lý do duy nhất là 18 đời vua Hùng không thể kéo dài đến hàng ngàn năm! (Mỗi đời vua trong các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau này cũng chỉ từ 15 đến 30 năm). Thời các vua Hùng nếu mỗi đời kéo dài đến 50 năm thì 18 đời Hùng Vương cũng chỉ là 900 năm. Như vậy thời Hùng Vương kéo dài đến hàng ngàn năm là hoang đường! Tuy nhiên, nếu xét thời gian chỉ ngắn ngủi như trên thì không phù hợp với nhiều hiện tượng bành trướng xâm lược của Đế quốc Hán Mông xưa. Vì vậy 18 đời vua Hùng chỉ là 18 chi họ Hùng Vương, mỗi chi gồm nhiều vị nối tiếp nhau cai trị đất nước đều gọi là đời Hùng Vương thứ nhất hoặc thứ hai… Nếu chi họ đó không có con trai hay người tài nối vị thì dòng họ gần kề sẽ lên nối ngôi và được gọi là đời Hùng Vương thứ ba hay thứ tư v.v… Điều này phù hợp với thời đại Thái cổ của Tổ tiên xưa: người dứng đầu các bộ lạc thời “săn bắn và thuần hóa súc vật” đều được gọi là Phục Hy; người đứng đầu các bộ lạc thời “nông nghiệp đầu tiên” đều được gọi là Thần Nông. Vì vậy thời Phục Hy và Thần Nông, mỗi thời kỳ đều có nhiều vị đứng đầu cùng tên nối tiếp nhau. Tiếp đến thời Hùng Vương cũng thế: thời Hùng Vương thứ nhất hay thứ hai, thứ ba… cho đến thứ 18, mỗi đời đều gồm nhiều vị vua Hùng. Thời gian như thế mới phù hợp với nhiều hiện tượng lịch sử mà các sử gia Trung Quốc sau này đã ghi.

Nước Văn Lang được thành lập dưới thời Kinh Dương Vương chắc chắn là vào thời kỳ nền nông nghiệp đã phát triển khá mạnh vì thời đó đã có nền lịch toán vững chắc để phục vụ nghề nông.

* Cổ sử Trung Quốc cũng đã viết: “Vào thời vua Nghiêu (năm 2357 trước CN – tức sau khi nước Văn Lang được thành lập 522 năm), có sứ giả Việt Thường  đến kinh đô tại Bình Dương (phía Bắc sông Hoàng Hà – tỉnh Sơn Tây ngày nay) để dâng một con Thần Quy (rùa lớn), vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa Đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau…

Vua Nghiêu sai người chép lại và lưu vào “tàng thư” gọi là “Lịch Rùa”. Sách “Thông Chí” của Trịnh Tiều xưa cũng đã ghi rõ về việc Thị tộc Việt Thường tặng Lịch Rùa cho vua Nghiêu . 

Nếu tính từ năm thành lập nước Văn Lang đến nay thì lịch rùa chắc chắn cũng đã có từ gần 5000 năm trước. 

Tại sao vào thời xa xưa đó mà người Việt Thường lại có thể giải thích được “việc trời đất từ khi mới mở đến sau này”? Rõ ràng họ đã có một nền văn minh “lịch toán” rất phát triển. Vì sao? Vì đó là yêu cầu của nền nông nghiệp đã được hình thành từ lâu đời (nghề canh tác lúa nước). Để dự báo thời tiết cho nông nghiệp bắt buộc họ phải phát triển lịch toán.

Và cơ sở của “Lịch Toán” này chắc chắn đã được khắc trên mai rùa đem sang tặng vua Nghiêu để cầu bang giao. Vì thế mà cổ sử Trung Quốc mới ghi lại là “…trên lưng rùa khắc chữ Khoa Đẩu ghi việc trời đất từ khi mới mở trở về sau này”. Như vậy là người Việt Thường  đã nghiên cứu Vũ Trụ rất sớm, đã đi sâu tìm hiểu Vũ Trụ từ khi mới sinh thành và đã đem những hiểu biết đó để làm lịch phục vụ nông nghiệp.

Lịch đã được khắc trên mai rùa mang sang cống vua Nghiêu chỉ có thể là hai bảng Âu Đồ và Lạc Thư – cơ sở của Lịch toán xưa – mà sau này người TQ đã đổi tên gọi là Hà Đồ và Lạc Thư cho hợp với sự giải thích hoang đường và thần bí của họ.

Trải qua hàng ngàn năm bị dân tộc Hoa – một dân tộc du mục thiện chiến phương Bắc – tràn xuống xâm chiếm lãnh thổ, tiếp theo là hàng ngàn năm bị đô hộ và “đồng hóa” nền văn hóa cổ của cả một dân tộc bị ra sức xóa bỏ cùng với chữ viết “Khoa Đẩu”. Tuy nhiên cốt lõi của nền văn minh nông nghiệp phát triển rất sớm của dân tộc này cùng những thuần phong mỹ tục  đi theo thì   không thể xóa bỏ, nhưng đã bị “đồng hóa” vào nền văn hóa của kẻ chiến thắng, thành nền văn hóa Hán tộc, nhất là từ sau khi chữ Hán Nho được phổ biến. Rất nhiều tinh hoa của nền văn hóa này có nguồn gốc từ nền “văn minh Khoa Đẩu” và tiếp là nền văn hóa “Việt Nho cổ”. Tiêu biểu nhất là tư tưởng “Triết học Dịch” dựa trên hai bảng số Âu Đồ và Lạc Thư cổ cùng nền “Lịch Toán Can Chi” phục vụ nông nghiệp. Kẻ chiến thắng thống trị đã biến chúng thành sản phẩm văn hóa của chính mình. Là con cháu nòi giống Việt Thường xưa, sau gần 5000 năm lịch sử –  tác giả tuy sự hiểu biết có hạn – cũng xin góp phần nhỏ bé của mình để khôi phục lại một phần nền văn minh Việt cổ – công lao của tổ tiên xưa – hy vọng trường tồn trong lòng dân tộc Việt hiện đại. Đây không phải là sự phủ nhận nền văn hóa vĩ đại của nước Trung Hoa suốt quá trình lịch sử lâu dài, mà chỉ là để góp phần chứng minh sự đóng góp quan trọng của nền văn minh Việt cổ trong nền văn hóa rộng lớn của các nước Á Đông mà Trung Quốc là đại diện hiện nay. Chắc chắn còn nhiều thiếu sót, tác giả mong bạn đọc bổ cứu để làm sáng tỏ thêm nền văn minh Việt cổ của tổ tiên xưa đã bị thất truyền.

Tài liệu Nghiên cứu: VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG

Unknown | 6:20:00 PM | 0 comments

VIỆT SỬ 5000 NĂM VĂN HIẾN VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG


Posted on 8 Tháng Một, 2011 by Muc Đồng

Nguyễn Vũ Tuấn Anh
Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương.

Qua bài viết của học giả Hồ Ngọc Thảo phản biện nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc là Hàn Chấn Hoa, chúng ta dễ dàng nhận thấy các học giả Trung Hoa dẫn tư liệu lịch sử trong các cổ thư chữ Hán để chứng minh biển Đông từ xa xưa thuộc về đất của người Hán. Nhưng có một điều rất đáng chú ý và cũng rất dễ dàng nhận ra rằng: 
Tất cả những tư liệu cổ ấy chỉ bắt đầu từ thời Hán trở về sau. Vậy trước đó vùng đất này thuộc về ai? Điều này có liên quan gì đến Việt sử 5000 năm văn hiến một thời huy hoàng ở miền Nam sông Dương Tử?

Kính thưa quí vị quan tâm.
Từ bài viết của tác giả Trần Kinh Nghi với tựa “Lịch sử cần sự thật”(*1) đăng trên Vietnamnet.vn, đến bài của học giả Hồ Ngọc Thảo phản biện nhà nghiên cứu lịch sử người Trung Quốc Hàn Chấn Hoa(*2), chúng ta thấy khá rõ một nguyên nhân sâu xa trong lịch sử và là vấn đề cốt lõi liên quan đến biển Đông, đó chính là: Cội nguồn sử Việt 5000 năm văn hiến một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử, hay chỉ là “một liên minh bộ lạc” với những người dân “Ở trần đóng khố”?
Qua hai bài viết trên và rất nhiều bài viết của giới nghiên cứu lịch sử Trung Hoa liên quan đến biển Đông, chúng ta dễ dàng nhận thấy mục đích cuối cùng của những bài viết này của họ đều xác định rằng: Biển Đông từ trong lịch sử thuộc về người Hán. Các nhà nghiên cứu sử người Hán đều dẫn những tư liệu, những di vật khảo cổ bắt đầu từ thời Hán trở lại đây, nhằm chứng minh biển Đông thuộc Hán từ hai ngàn năm trước. Chúng tôi chưa bàn đến tính đúng sai và tính chưa rõ ràng của những sử liệu này. Việc này đã có những nhà nghiên cứu quốc tế và Việt Nam uyên bác với những nguồn sử liệu dồi dào phân tích, chứng minh và đã phản biện một cách sắc xảo. Trong bài viết này, chúng tôi đặt vấn đề từ một góc nhìn khác liên quan đến Việt sử 5000 năm văn hiến và chủ quyền ở Biển Đông thuộc Việt Nam. Trước hết, chúng tôi xác định rằng: Việc cố gắng chứng minh chủ quyền biển Đông của Việt Nam hiện nay thuộc về Trung Quốc của những nhà nghiên cứu lịch sử người Hán, hoàn toàn chỉ mang ý nghĩa tuyền truyền trong chính dân chúng Trung Quốc nhằm tạo một ý niệm rằng: Người Trung Quốc đang đòi lại quyền lợi đã mất của họ từ trong lịch sử. Đây là một sai lầm lớn nhất của họ không chỉ thể hiện ở tri thức lịch sử của các nhà nghiên cứu Hán, mà còn cả ở bản thân phương pháp ứng dụng. Hơn thế nữa, đó là sai lầm có tính chiến lược toàn cầu của mục đích thể hiện sức mạnh Trung Quốc.
Chúng tôi sẽ lần lượt chứng minh luận điểm này qua từng tiêu đề mà chúng tôi đã đặt ra.

I – Phương pháp minh chứng qua những chứng cứ lịch sử để xác định chủ quyền một vùng đất hiện tại liên quan thế nào với lịch sử?
Đây chính là việc làm của những nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc đang cố gắng chứng minh rằng: Biển Đông xa xưa thuộc về người Hán. Một ví dụ sinh động của phương pháp này chính là bài viết của ông Hàn Chấn Hoa và đã được nhà nghiên cứu Việt sử Hồ Ngọc Thảo phản biện đến từng chi tiết trong nội dung bài viết.
Nhìn từ một góc độ khác của bài viết này – xét về phương pháp luận qua những tư liệu trích dẫn từ bài viết của Hàn Chấn Hoa – thì các nhà sử học Trung Quốc đã mắc một sai lầm mang tính học thuật, chính là sự giới hạn thời gian lịch sử của họ. Cụ thể qua nội dung bài viết của ông Hồ Ngọc Thảo ngay trong topic này và rất nhiều bài viết của các học giả khác liên quan thì họ đều giới hạn thời gian lịch sử xa nhất là thời Hán và không thể xa hơn.
Tại sao họ lại ấn định một cái giới hạn thời gian lịch sử như vậy? Bởi vì trước thời Hán của lịch sử Trung Hoa – là giới hạn lịch sử mà họ đặt ra – họ không thể chứng minh được biển Đông của Việt Nam hiện nay thuộc Trung Quốc. Chính tính giới hạn thời gian lịch sử này, tự nó đã mâu thuẫn và thể hiện tính bất hợp lý ngay trong nội tại phương pháp đó. Chúng ta đều biết rằng: Tính hợp lý là một yếu tố cần để xác định tính chân lý trong khoa học. Do đó, với cách dẫn chứng tư liệu lịch sử của các nhà nghiên cứu Hán mang tính giới hạn thời gian mà không đáp ứng được các tiêu chí và nguyên tắc xác định lịch sử, nên nó hoàn toàn mang tính ngụy biện. Cho dù họ có ý thức, hay không có ý thức về việc này (Chúng tôi sẽ đề cập đến những tiêu chí và nguyên tắc lịch sử trong phần sau của bài viết này). Bởi vì:
Nếu áp dụng phương pháp này và giới hạn thời gian vào thế kỷ 12 thì phần lớn lục địa Âu – Á trong đó có cả Trung Quốc thuộc về người Mông Cổ!?
Còn với giới hạn từ thời Hán – như các nhà nghiên cứu đã xác định – thì trước đó chủ quyền biển Đông không thuộc về Trung Quốc. Hay nói một cách khác:
Chính những nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc, khi đang cố gắng minh chứng chủ quyền biển Đông thuộc về Trung Quốc, đã tự phủ nhận chính chủ quyền của họ trong qúa khứ lịch sử. Bởi vì trước thời Hán ghi nhận trong lịch sử Trung Hoa thì cả miền nam sông Dương Tử, tất nhiên bao gồm luôn cả biển Đông, thuộc về Bách Việt mà hậu duệ chính là dân tộc Việt trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay. Điều này đã được ghi nhận ngay trong cuốn sử nổi tiếng của Trung Quốc là cuốn “Sử Ký” của Tư Mã Thiên, trong đó ghi rõ: “Nam Dương tử là nơi Bách Việt ở”. Đây chính là tư liệu lịch sử xưa nhất và đáng tin cậy của chính người Hán. Nội dung của tư liệu này cho thấy sự xác định rằng: Trước thời Tần Hán, người Hán không hề là dân tộc làm chủ ở Biển Đông Việt Nam ngày nay. Đó chính là nguyên nhân để các sử gia Trung Quốc chỉ có thể dẫn chứng chủ quyền ở biển Đông Việt Nam ngày này thuộc về Trung Quốc từ thời Tần Hán trở lại đây. Bởi vì, ngay phía Nam dòng sông Dương Tử là nơi Bách Việt ở thì: Hàng Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam..vv…..tất nhiên cả Hồng Kong, Thượng Hải, Ma Cao và cả Đài Loan bây giờ đều thuộc về “Bách Việt” vào trước Tần Hán. Còn xa hơn dưới biển Đông Việt Nam ngày này thì không cần phải bàn.


Đây là hai tấm bản đồ thời Chiến Quốc và thời Tần do chính các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc thực hiện, trong cuốn “Lịch sử Trung Quốc 5000 năm”. Qua bản đồ này chúng ta thấy rằng trước Tần Hán, người Trung Quốc chưa hề là chủ sở hữu biển Đông của Việt Nam ngày nay. 

Vấn đề còn lại là vào trước Tần Hán biển Đông Việt Nam ngày nay có thuộc về người Việt hay không? Điều này liên quan đến cội nguồn Việt sử. 

2 . Việt sử 5000 năm văn hiến và vấn đề chủ quyền lãnh thổ, nhìn từ lịch sử.
Trên nguyên tắc xác định chủ quyền lãnh thổ thì việc đầu tiên là phải xác định chủ quyền quốc gia. Người ta không thể xác định chủ quyền lãnh thổ căn cứ vào sự tồn tại của những tộc người với tổ chức bộ lạc, hoặc liên minh bộ lạc. Tiêu chí cho lịch sử một dân tộc xác định rằng:
Lịch sử của một dân tộc chỉ được coi là bắt đầu từ khi dân tộc đó lập quốc.
Còn trước khi một dân tộc, hoặc một tập hợp các dân tộc nào đó lập quốc thì chỉ coi là lịch sử tiến hóa đến một giá trị văn minh. Đến đây, chúng tôi nghĩ rằng qúa đủ để thấy tính cần thiết cho việc xác định một cách rõ ràng trên cơ sở khoa học cho hai quan điểm sử học về cội nguồn dân tộc Việt.
Cả hai quan điểm này đều nhân danh khoa học, nhưng hoàn toàn xung khắc nhau đó là:
1. Quan điểm xác định và chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến, mở đầu bằng quốc gia Văn Lang dưới triều đại của các Vua Hùng, bắt đầu từ năm thứ 8 vận 7, Hội Ngọ. Nhâm Tuất – 2879 trước CN. Tính đến nay gần 5000 năm lịch sử. Nước Văn Lang: Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Đông Hải.
Trong bài viết này chúng tôi gọi tắt là: Quan điểm xác định truyền thống văn hóa sử Việt.
Quan điểm này được chứng minh trên cơ sở tiêu chí khoa học, căn cứ trên truyền thống văn hóa sử Việt và được ghi nhận trong chính sử Việt Nam qua các triều đại – Kể từ khi dân tộc Việt hưng quốc vào thế kỷ thứ X sau CN.
2. Quan điểm cho rằng thời Hùng Vương – cội nguồn dân tộc Việt chỉ có thể bắt đầu vào thế kỷ thứ VII trước CN và chỉ là “một liên minh gồm 15 bộ lạc, cùng lắm là một nhà nước sơ khai” với địa bàn cư trú vỏn vẹn ở đồng bằng sông Hồng.
Trong bài viết này, chúng tôi gọi tắt là : Quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt.
Quan điểm này hoàn toàn chỉ dựa trên sự hoài nghi về những tư liệu lịch sử trong chính Việt sử. Hay nói rõ hơn: Nó chỉ là giả thiết – nếu nhân danh khoa học – dựa trên sự hoài nghi vì tính mơ hồ do thất truyền những bản văn, tư liệu từ hàng ngàn năm trước của Việt sử.

Kính thưa quí vị quan tâm.
Nếu quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt đúng thì vào trước thời Tần Hán, Biển Việt Nam hiện nay không thuộc lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền nào. Không lẽ nó thuộc về liên minh 15 bộ lạc? Và vấn đề tiếp tục đặt ra là: Có hay không thời Bắc thuộc của một dân tộc mất nước là Việt tộc – Khi thời Hùng Vương cội nguồn lịch sử của dân tộc Việt chưa phải là một quốc gia, để có thể đặt vấn đề mất nước? Tiếp theo nữa là vấn đề khi các cuộc nổi dậy của Việt tộc, bắt đầu từ Hai Bà Trưng cho đến việc lập quốc vào thế kỷ thứ X là giành lại độc lập dân tộc – nếu xác định Thời Hùng Vương là một quốc gia, hay là một sự ly khai khỏi đế chế Hán , nếu xác định thời Hùng Vương chỉ là một liên minh bộ lạc?
Ngược lại, nếu quan điểm xác định truyền thống văn hóa sử Việt đúng thì điều rất rõ ràng rằng: Dân tộc Việt trước thời Tần Hán đã thành lập một quốc gia của dân tộc này và hoàn toàn chính danh về chủ quyền lãnh thổ khi xác định rằng: Trước thời Tần Hán, lãnh thổ của quốc gia Văn Lang: Bắc giáp Động Đình hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục và Đông giáp Đông Hải – thì – hoàn toàn không có vấn đề Biển Đông Việt Nam hiện nay thuộc về Trung Quốc với góc nhìn từ lịch sử khi dân tộc Việt đã hưng quốc vào thế kỷ thứ X và xác định chủ quyền lãnh thổ trên bất cứ phần lãnh thổ nào giành lại được khi phục hồi lại một phần của quốc gia Văn Lang xưa. Tất nhiên trong đó gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa.
Như vậy, chính sự xác định và minh chứng tính chân lý của hai quan điểm này sẽ góp phần xác định tính chủ quyền biển đảo của Việt Nam trên biển Đông từ góc nhìn của lịch sử.

Kính thưa quí vị.
Cả hai quan điểm mà chúng tôi trình bày ở trên đều nhân danh khoa học để bảo vệ quan điểm của mình. Về vấn đề này, chúng tôi đã minh chứng đầy đủ những luận cứ hoàn toàn căn cứ vào tiêu chí khoa học cho một luận cứ khoa học, để khẳng định Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Có thể nói rằng: Tất cả những sách đã được chính thức xuất bản của người viết và của các nhà nghiên cứu khoa học đồng quan điểm trong nước và quốc tế và qua các bài viết, tiểu luận trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn đã chứng minh và phản biện một cách sắc sảo đến từng chi tiết các luận cứ của những nhà khoa học có quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt(*3). Và rõ ràng trong một thời gian quá dài trài gần 30 năm tính từ khi quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt xuất hiện và chí ít tính từ cuốn sách đầu tiên của người viết bài này từ 1998 cho đến nay, đã rất nhiều bài viết của các học giả, những nhà khoa học khác – kể cả trong nước và quốc tế – cũng đã lên tiếng, mà chưa hề có một sự biện minh, phản biện của các nhà nghiên cứu lịch sử thuộc quan điểm phủ nhân truyền thống văn hóa sử Việt. Thời gian gần đây, hiện tượng Thiền Sư Lê Mạnh Thát với các bài viết của mình minh chứng Việt sử 5000 năm văn hiến với phương pháp luận căn cứ vào các thư tịch, tư liệu, chứng tích liên quan đến lịch sử Phật giáo ở Việt Nam đã gây chú ý đặc biệt của dư luận. Hội Sử học Việt Nam cũng đã lên tiếng sẽ tổ chức hội thảo để có một cuộc phản biện hiếm hoi với Thiền sư Lê Mạnh Thát. Mặc dù chưa thống nhất với một số luận cứ của Thiền Sư, nhưng chúng tôi cũng chuẩn bị đứng bên giáo sư Lê Mạnh Thát cùng minh chứng cho Việt sử 5000 năm văn hiến. Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì không thấy mọi chuyện được nhắc tới, cứ như nó chưa từng xảy ra.

Tất cả những sự im lặng này là bước đầu dễ nhận thấy để xác định rõ hơn về tính phi khoa học của quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt. Những nhà khoa học có quan điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt hoàn toàn lợi thế về bằng cấp, địa vị và quyền lực trong khoa học, nhưng phải im lặng thì chỉ có thể giải thích rằng: Họ không đủ tự tin vào chính những những luận cứ của họ để bảo vệ quan điểm.

Trên cơ sở này quan điểm Việt sử trài 5000 năm văn hiến đã được chứng minh hoàn toàn khoa học và không hề có phản biện chính thức. Chúng tôi xác định rằng: Chủ quyền trên biển Đông của Việt Nam hiện nay, chính là sự tiếp tục xác định chủ quyền quốc gia, kể từ khi dân tộc Việt lập quốc từ năm 2879 trước CN bên bờ Nam sông Dương tử. Chính vì sự thành lập quốc gia và với một lãnh thổ rộng lớn bao trùm nam Dương Tử, nên người Việt hoàn toàn đầy đủ tính lịch sử dân tộc về chủ quyền, khi giành lại độc lập và hưng quốc trên một phần lãnh thổ quốc gia đã mất do sự xâm lược của đế chế Hán trải hơn 1000 năm. Đó chính là phần lãnh thổ Việt Nam hiện nay bao gồm cả biển Đông trong đó có Trường Sa và Hoàng Sa. Đây cũng chính là lý do mà các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa không thể dẫn chứng lịch sử của những vùng biển này trước thời Hán.

Bởi vậy, chúng tôi xác quyết rằng: Sự có mặt của những lực lượng thuộc dân tộc Việt bảo vệ biển Đông của Việt Nam ngày nay, gồm Trường Sa, Hoàng Sa trước khi có cuộc chiếm đóng bằng bạo lực của Trung Quốc vào năm 1974, hoàn toàn thuộc về người Việt về cả mặt luật pháp quốc tế hiện hành và cả từ góc nhìn từ lịch sử – Nhân danh Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử.

Lịch sử – Quá khứ và thực tại
Sự xác định một qúa khứ lịch sử của một dân tộc về biên giới và lãnh thổ cách đây hơn 2000 năm về trước với mục đích xác định tính chân lý cội nguồn dân tộc, hoàn toàn không có nghĩa là một yêu cầu phục hồi lại những vùng lãnh thổ đã mất của dân tộc đó, nếu như những biến cố lịch sử không dẫn tới những yêu cầu đó. Diễn tả một cách rõ ràng hơn: Đế chế Inca của người da đỏ bị khuất phục bởi những đội quân xâm lược của cường quốc da trắng và quốc gia Inca sụp đổ. Xác nhận sự thật lịch sử này, không có nghĩa tất cả những người không phải chủng tộc da đỏ phải ra khỏi Hoa Kỳ. Lịch sử đã có những diễn biến theo quy luật và logic của nó và đã xác định một quốc gia có chủ quyền tách rời các quốc gia từng xâm lược đế chế Inca. Những dân tộc trên đất nước Hoa Kỳ hiện nay, đã thừa nhận về mặt tình cảm và pháp lý của Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Đó là thực tại và logic của lịch sử.
Tương tự như vậy, việc xác định Việt sử 5000 năm văn hiến có khoảng cách hơn 2000 năm về trước – một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử – tức là gần 1/3 lãnh thổ Trung Quốc ngày nay, không có nghĩa là sự xác định chủ quyền lãnh thổ của dân tộc Việt trong hiện tại và yêu cầu nước Trung Hoa phải trao lại vùng lãnh thổ đó cho dân tộc Việt. Nhưng điều đó, cũng có nghĩa rằng: Vùng biển Đông của Việt Nam mà nước Trung Hoa đang xác định chủ quyền của họ với căn cứ một quá khứ có giới hạn từ thời Hán trở lại đây, mà họ đưa ra về mặt lịch sử, khi mà thực tại lịch sử đã xác định với sự công nhận về luật pháp quốc tế trong lịch sử hiện đại – tức là logic của lịch sử hiện tại – đang được tôn trọng. Người Việt đã giành lại độc lập trên mảnh đất của tổ tiên từ hơn 2000 năm trước và sở hữu Biền Đông qua các triều đại lịch sử, kể từ khi dân tộc Việt hưng quốc từ thế kỷ thứ X sau CN.

Bởi vậy một lần nữa tôi xác định rằng:
Việt sử trải gần 5000 năm là một chân lý nhân danh khoa học, nó được chứng minh đúng trên mọi phương diện không chỉ ở tính khoa học phản ánh chân lý, mà còn cả về chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Việc minh chứng với những tư liệu có tính giới hạn thời gian lịch sử từ thời Hán của các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa hoàn toàn phi logic và khả năng mang tính tuyên truyền, chỉ có gía trị gây sự hiểu nhầm trong cái nhìn của người dân Trung Quốc, nhằm kích động tinh thần dân tộc với chủ quyền lãnh thổ trong qúa khứ. Chính vì tính phi logic bởi tính giới hạn thời gian lịch sử của các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa, khi xác định lịch sử chủ quyền biên đảo trên Biển Đông của họ, khiến người viết hoàn toàn có cơ ở để hoài nghi động cơ của họ hoàn toàn phục vụ cho một mưu đồ nhằm thôn tính biển Đông của Việt Nam. Nhưng rất tiếc, đây lại là một sai lầm lớn hơn về chiến lược phát triển của cả một quốc gia.

“Người ta không thể xác định một cái đúng từ một cái sai. Mà chỉ có thể từ một cái đúng chỉ ra những cái sai”.

Sự sai lầm, phi logic trong luận cứ của các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa về lịch sử chủ quyền biển Đông , chính là hệ quả của sự sai lầm trong chiến lược phát triển của quốc gia này, trong bối cảnh thế giới hiện nay.

Việt Nam – Trung Quốc và bối cảnh lịch sử quốc tế hiện đại.
Trong bài viết “Lịch sử cần sự thật” đăng trên Vietnamnet.vn, tác giả Trần Kinh Nghi viết:
Nội dung trích dẫn
Kẻ mạnh thường thắng kẻ yếu, và sự thôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc, quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều quan trọng có tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và giữ gìn một cách trung thực

.(*3)
Hoàn toàn chính xác! Nhưng lịch sử cũng cho thấy các mối tương quan giữa kẻ mạnh và kẻ yếu mỗi lúc một khác. Có lẽ do giới hạn của chủ đề bài viết, mà tác giả Trần Kinh Nghi không diễn giải cụ thể. Bởi vì, lịch sử hiện đại không phải như vài trăm năm trước với khái niệm thời gian dài đằng đẵng và không gian mênh mông. Mà trong bối cảnh lịch sử ấy, chung quanh Việt Nam chỉ có vài nước nhỏ bé với duy nhất đất nước Trung Quốc vĩ đại, gần như có thể thống trị cả thế giới. Lịch sử hiện đại thì hoàn toàn ngược lại. Không gian thật nhỏ bé và thời gian thì vận động nhanh hơn nhiều bởi chính những phương tiện của con người. Trong mối quan hệ của lịch sử hiện đại thì ngay cả sự phát triển hùng mạnh của Trung Quốc cho đến hôm nay so với Việt Nam, cũng chỉ tương đương tỷ lệ với tương quan Việt Nam và Trung Quốc cách đây hàng trăm năm trước. Nhưng nó lại được đặt trong một bối cảnh thế giới hiện đại khác hẳn, đang tác động vào mối quan hệ cổ điển này. Trung Quốc không còn là nước duy nhất hùng mạnh trên thế giới tác động đến Việt Nam. Một giá trị logic mới của lịch sử được xác lập ít nhất về mặt lý thuyết cho các mối quan hệ quốc tế và được các nhiều cường quốc trên thế giới công nhận. Thí dụ như quy chế của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam là một nước thành viên. Về xu hướng phát triển của văn minh hiện đại khiến cho vai trò của Trung Quốc – cho dù đang phát triển rất nhanh – cũng chỉ là một thành tố trong quá trình toàn cầu hóa được xác lập như một quy luật tất yếu thông qua tri thức của con người. Quá trình này sẽ dẫn đến hệ quả tất yếu là: Xác định một quyền lực toàn cầu để điều khiển toàn bộ sự tồn tại và phát triển tiếp theo của một thế giới toàn cầu hóa về mọi phương diện. Quyền lực toàn cầu này – hoặc là một tổ chức quốc tế gồm nhiều quốc gia nhằm phục vụ cho lợi ích chung của nhân loại; hoặc là xác lập vị trí bá chủ thế giới của một quốc gia duy nhất.
Nếu theo xu hướng quốc tế hóa quyền lực toàn cầu thì rõ ràng hành vi xâm phạm chủ quyền lãnh thổ đã được xác định là không phù hợp. Nó sẽ tạo ra một thành kiến với những quốc gia có hành vi trên và nó sẽ đẩy thế giới đến xu hướng dùng sức mạnh để chỉ phối toàn thế giới với một quốc gia bá chủ.
Nếu theo xu hướng một quốc gia làm bá chủ thế giới thì cái gì sẽ xẩy ra? Tất yếu đó là một cuộc chiến tranh mà Việt Nam không tham gia. Đơn giản vì đất nước nhỏ bé này không có thể làm bá chủ thế giới bằng sức mạnh về cả kinh tế lẫn quân sự. Sự xác định quyền lợi cốt lõi trên lãnh thổ của các nước láng giềng của Trung Quốc – mà hàng ngàn năm nay những người dân các nước gần Trung Quốc sinh sống, trong đó có Việt Nam – sẽ xác định tham vọng chi phối thế giới của đất nước này và thách thức quyền lợi và tham vọng của các nước khác..Ở đây tôi cũng nói thẳng: Đó là chính là Hoa Kỳ. Có lẽ, những ai ham đọc sách báo có thể chưa quên rằng: Sau khi Liên Xô và khối Đông Âu sụp đổ, chính Hoa Kỳ đã có ý định giải tán Liên Hợp Quốc và xác định quyền lực bá chủ chi phối thế giới. Nhưng vì một nguyên nhân nào đó, họ đã không thực hiện ý định này. Tuy nhiên, chỉ cần một ý định như vậy, cũng đủ xác định sự tư tin của Hoa Kỳ và tham vọng bá chủ trong việc chi phối thế giới. Sự phát triển nhanh chóng về cả kinh tế và quân sự của Trung Quốc không thôi thì chắc vấn đề sẽ chưa có gì để bàn. Nhưng với sự coi quyền lợi lãnh thổ là cốt lõi với các nước láng giềng của họ, mà trước đó họ không có trên thực tế lịch sử hiện đại – và cả tối cổ với Việt Nam 5000 năm văn hiến – đã khiến tham vọng bá chủ của Hoa Kỳ lung lay. Đừng tưởng cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua làm suy yếu sức mạnh kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ với tham vọng bá chủ thế giới – ít nhất trong lúc này. Ngược lại, chính nó lại là nguyên nhân để một cuộc chiến xác định ngôi vị bá chủ thế giới đến gần hơn, nhằm xác định quyền lực chi phối thế giới để giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay chưa có lối thoát. Nếu người Trung Quốc đang có tham vọng chi phối thế giới (Tôi chưa nói đến tham vọng bá chủ thay thế Hoa Kỳ) thì họ đã mắc một sai lầm chiến lược khi xác định chủ quyền lãnh thổ với các nước láng giềng trong đó có biển Đông của Việt Nam – khi so với thế giới nó chỉ tỷ lệ với cái ao trong làng.
Với những cảm tình còn sót lại trong tôi với đất nước Trung Quốc, tôi viết bài này muốn thành thực nói với họ rằng: Hãy trả lại tất cả các biển đảo đã chiếm đóng và long trọng xác định chủ quyền biển đảo của Việt Nam như thực tế lịch sử hiện đại đã định vị, nhún nhường khiêm tốn để phát triển kinh tế và sức mạnh quân sự chỉ đủ răn đe những quốc gia nào có ý đồ xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. “Hãy ẩn mình chờ thời” – đó là câu nói đó của ngài Đặng Tiểu Bình, hình như cũng không lâu lắm thì phải. Cách đây không lâu, chính người Trung Quốc đã xác định “Chủ nghĩa thực dân cũ là đi xâm lược, còn chủ nghĩa thực dân mới là xâm chiếm thị trường”. Tôi nghĩ chắc họ đủ tỉnh táo để có những chiến lược phù hợp với thời đại.
Xu hướng hội nhập toàn cầu sẽ dẫn đến sự tập trung quyền lực mang tính quốc tế trong tương lai. Chính điều này xác định sai lầm của Trung Quốc vì những tham vọng lãnh thổ trong quan hệ quốc tế, mà đáng nhẽ họ có thể có một sự ảnh hưởng rất quan trọng trong tương lai. Nếu họ suy nghĩ lại, may ra còn kịp. Còn vài ngày nữa hai vị đứng đầu Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ gặp nhau. Sau đó mọi người sẽ biết, hoặc sẽ có thể tiên tri cái gì sẽ xảy ra trong một tương lai gần. Cuộc gặp này sẽ tương tự cuộc gặp của Tổng thống Goorbachop và Regan, mặc dù nó không cần bí mật như vậy.

Kết luận
Trong cái nhìn của người viết bài này, thì những bài viết của những nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa, đại loại như Hàn Chấn Hoa, hoàn toàn chỉ là hệ quả của một tham vọng, nên nó không mang tính học thuật dù mang danh học thuật. Chỉ cần một thay đổi có tính chiến lược quốc tế là nó biến mất và các nhà nghiên cứu loại này sẽ về hưu, hoặc tìm chỗ ẩn dật vì đời không hiểu mình.
Chân lý thật sự thuộc về Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở miền nam sông Dương tử và là cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương. Nếu như có cuộc đối thoại giữa các nền văn minh thì đấy chính là văn minh Lạc Việt với thuyết Âm Dương Ngũ hành – một lý thuyết thống nhất vũ trụ – đối thoại để hòa nhập với nền văn minh khoa học kỹ thuật hiện đại, theo cái nhìn của cá nhân tôi. Một thế giới thống nhất trong tương lai, nó sẽ cần tối thiểu đến một chuẩn mực quy ước chung được chấp thuận cho cả nhân loại để tồn tại và phát triển. Lý tưởng nhất cho một sự hội nhập toàn cầu chính là con người tìm ra và xác định một lý thuyết thống nhất vũ trụ. 
=========================================
* Chú thích:
1/ http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/…mp;#entry112522
2/ http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai20/201020_HoBachThao.htm
3/ http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/…hp?showforum=50

Không có cái gọi là “Từ Hán Việt”?

Unknown | 12:36:00 AM | 0 comments
 Đó là tiêu đề bài viết của tác giả Hà Văn Thùy - người được biết luôn trăn trở về  nguồn cội của dân tộc Việt Nam-  được đăng tải trên một số trang mạng trong thời gian gần đây. Chủ Blog Bách Việt xin tạm miễn bình luận về nội dung, chỉ mạn phép đăng lại bài viết khá công phu này của tác giả với một dấu hỏi (?). Hy vọng với  loạt bài cùng chủ đề của các tác giả khác nhau đã, đang và sẽ được đăng trên trang Bách Việt, bài viết của ông Hà Văn Thùy cung cấp thêm một cách nhìn về nguồn cội dân tộc và ngôn ngữ Việt Nam mà đến nay vẫn tồn đọng những góc khuất chưa được giải mã.  Dưới đây là nguyên văn nội dung bài viết ( Chủ Blog Bách Việt)
Trên trang mạng Bách Việt, ông Trần Kinh Nghị có bài “Di sản Hán Việt”  http://trankinhnghi.blogspot.com/2013/11/di-san-han-viet.html. Sau khi nhận định: quãng trên dưới 70-80 % từ vựng tiếng Việt có thành tố Hán-Việt, ông cho rằng “nếu vì một lý do nào đó mà để ngôn ngữ nước mình bị một ngôn ngữ khác lấn át và tình trạng lấn át kéo dài chắc chắn sẽ dẫn đến nguy cơ bị đồng hóa hoặc thoái hóa.” Kết thúc bài viết, ông đề nghị Nhà nước có biện pháp hạn chế việc dùng từ Hán Việt để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.

Đồng cảm với nỗi bức thúc của ông nhưng nhận thấy đây là vấn đề lớn và không hề đơn giản, chúng tôi xin thưa lại đôi lời.

I. Có đúng tiếng Việt vay mượn từ ngôn ngữ Hán?


Muốn giải quyết thỏa đáng chuyện này, không còn cách nào khác là phải đi tới tận cùng cội nguồn ngôn ngữ, không chỉ của người Việt mà cả của người Trung Hoa.

Nửa sau thế kỷ XIX, ngay khi chưa đặt xong ách đô hộ trên toàn cõi Vệt Nam, những học giả người Pháp đã có mặt để nghiên cứu thiên nhiên, con người, văn hóa, xã hội xứ Annam. Từ kết quả nghiên cứu, năm 1898, nhà nước bảo hộ Pháp cho thành lập Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội. Đứng đầu lĩnh vực khoa học nhân văn là những nhà Hán học như E. Aymonier, L. Maspéro… Là học giả phương Tây, họ mang quan niệm Âu trung: châu Âu là trung tâm của văn minh nhân loại. Là nhà Hán học, họ theo thuyết Hoa tâm: Trung Hoa là trung tâm của châu Á. Họ cũng chịu ảnh hưởng của tri thức sai lầm đương thời cho rằng, con người từ Tây Tạng xâm nhập Trung Quốc rồi sau đó xuống Việt Nam và Đông Nam Á nên ánh sáng văn minh cũng từ Trung Hoa lan tỏa tới phương Nam. Khi nghiên cứu tiếng nói của người Việt Nam, họ có trong tay những bộ từ điển Trung Hoa đồ sộ như Từ Hải, Tứ khố toàn thư, Khang Hy… Trong khi đó, tiếng Việt chỉ có Từ điển Việt-Bồ-La của Alexander de Rhodes cùng Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, hai cuốn sách nhỏ, tập hợp từ ngữ Việt chữ Latinh mới có khoảng 300 tuổi. Bằng thao tác đơn giản là thống kê, so sánh những từ được cho là gốc Hán có trong tiếng Việt, họ eureka: “Tiếng Việt mượn khoảng 70% từ Hán ngữ!”
Sự thật có đúng như vậy không?
Vào năm 1898, H. Frey, một đại tá người Pháp, từng công tác ở Tây Phi sau đó có mặt ở Việt Nam, đã xuất bản cuốn Tiếng Annam, mẹ của các ngữ (L’Annamite, mère des langues): Tiếng Annam, xuất xứ của các ngôn ngữ: Cộng đồng các chủng tộc Xentơ, Xémit, Xuđăng và Đông Dương. Bằng kinh nghiệm ở Châu lục đen, nhà ngữ học chân thực này cho rằng tiếng Việt gần gũi với tiếng các sắc dân châu Phi và là nguồn cội của mọi ngôn ngữ phương Đông. Tiếp đó ông còn cho ra hai cuốn khác khẳng định quan điểm của mình. Tuy nhiên, các viện sĩ của Viễn Đông Bác Cổ “không thèm chấp” gã tay ngang võ biền. Không chỉ vậy, vào năm 1937-1938 còn có cuộc tranh luận giữa nhà ngữ học trẻ người Ba Lan Prilusky với viện sĩ Maspéro. Từ khảo cứu của mình, Prilusky phát triển quan điểm của H. Frey nhưng kết cục phần thắng thuộc về bậc lão làng!

Kết luận của Viện Viễn Đông Bác Cổ dáng đòn hủy diệt không chỉ vào văn hóa mà cả vào tương lai dân tộc Việt Nam! Do ngón đòn ác hiểm này mà sau đó, khi phân loại ngôn ngữ phương Đông, đề xuất một họ ngôn ngữ Annam bị bãi bỏ do “không xứng đáng vì vay mượn quá nhiều từ nước ngoài!” Thay vào đó là họ ngôn ngữ mang cái tên không tiêu biểu: ngôn ngữ Mon-Khmer. Kết quả là cho đến nay, trong sách giao khoa ngôn ngữ của nhiều đại học hàng đầu thế giới vẫn viết “Tiếng Việt vay mượn khoảng 60% từ ngôn ngữ Trung Hoa (!)” Dù sao thì cũng được an ủi phần nào vì 60% ít hơn con số chúng ta tự nhận!

Điều khủng khiếp nhất là, vào thập niên 1920, các học giả tiên phong người Việt như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố… tiếp nhận tri thức sai lầm đó, dạy cho con dân Việt. Ý tưởng tiếng Việt vay mượn tiếng Hán như cỏ dại lan rộng trên cánh đồng tư tưởng, thấm tới toàn bộ người có học Việt Nam hiện nay! Gần suốt thế kỷ, học giả Việt không một lời cãi lại. Ở thập niên 80, trong công trình ngữ học công phu Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nguyễn Tài Cẩn “khám phá”: ngoài cái gọi là “từ Hán Việt”, trong tiếng Việt còn lớp từ Hán cổ và lớp từ Hán Việt Việt hóa (1). Không đưa ra con số thống kê nhưng với hai lớp từ được bổ sung đó, có lẽ tỷ trọng vay mượn của tiếng Việt còn tăng lên gấp bội!

Nhưng dù sao, đấy chỉ là tính toán của nhà bác học, còn với người dân Việt, ít người tin, chỉ vì lý do đơn giản: một dân tộc vay mượn đến bằng nấy tiếng nước ngoài không thể là dân tộc trưởng thành, chắc chắn đã bị đồng hóa sau nghìn năm nô lệ!

Năm 2006, từ nghiên cứu của mình, chúng tôi công bố bài viết Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa (2). Rất may là ý tưởng “điên rồ” đó chẳng những không bị ném đá mà còn không rơi vào im lặng. Ít lâu sau, từ Sacramento nước Mỹ, nhà nghiên cứu Đỗ Ngọc Thành gửi cho chúng tôi những bài viết chấn động: Phát hiện lại Việt Nhân ca, Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn, Đi tìm nguồn gốc chữ Nôm…(3) trong đó dẫn ra hàng nghìn bằng chứng không thể phản bác cho thấy, tiếng nói nguyên thủy của người Trung Hoa là tiếng Việt. Người bạn Việt Triều Châu của tôi khẳng định: “Tất cả các chữ tượng hình được làm ra là để ký âm tiếng Việt. Vì vậy, mọi chữ vuông chỉ khi đọc và giải nghĩa bằng tiếng Việt mới chính xác!” Một sự ủng hộ vô giá! Càng may hơn là đầu năm 2012, chúng tôi nhận được tin: Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt tỉnh Quảng Tây Trung Quốc phát hiện chữ Việt cổ khắc trên xẻng đá, giống với chữ Giáp cốt (4)! Từ những nguồn tư liệu phong phú và vững chắc, chúng tôi nhanh chóng hoàn thành bài viết: Chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ viết Trung Hoa (5)!

Như vậy, sang thế kỷ này, nhờ tiến bộ của khoa học thế giới, nhờ tấm lòng và công sức của cộng đồng người Việt, không những chúng ta xác định được người Việt có đa dạng di truyền cao nhất trong dân cư châu Á, có nghĩa, Việt Nam là cái nôi của các dân tộc phương Đông mà còn chứng minh được, tổ tiên ta để lại trên đất Trung Hoa không chỉ tiếng nói mà cả chữ viết.

Chúng tôi hình dung quá trình hình thành tiếng nói và chữ viết trên đất Trung Hoa như sau:

Nhiều dữ liệu khoa học cho thấy, 40.000 năm trước, người Việt cổ đã từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Tới 4000 năm TCN, người Việt đã xây dựng ở đây nền văn hóa nông nghiệp rực rỡ. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ do Hiên Viên dẫn đầu, vượt Hoàng Hà vào chiếm đất Việt, dựng vương triều Hoàng Đế. Trong vương quốc Hoàng Đế, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ. Người Hoa Hạ bú sữa mẹ Việt, học tiếng nói Việt. Do ngôn ngữ Mông Cổ nghèo nên tiếng Việt thành chủ thể của tiếng nói vương triều. Cùng với thời gian, người Hoa Hạ thay cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã hội, đã áp đặt dân chúng nói theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance: tính từ đứng trước danh từ, hay như ta vẫn gọi là cách nói ngược.) Trên thực tế, ngôn ngữ của dân cư vương triều Hoàng Đế là tiếng Việt được nói theo văn phạm Mông Cổ. Sau này, nhà Tần, nhà Hán mở rộng lãnh thổ, ngôn ngữ tại các vùng bị kiêm tính cũng chuyển hóa theo cách tương tự. Do người Việt sống trên địa bàn rộng với thổ nhưỡng, khí hậu khác nhau, nên ngôn ngữ bị phân ly thành nhiều phương ngữ. Trong đó, tiếng nói vùng Quảng Đông (Việt Đông), Phúc Kiến (Mân Việt) là chuẩn mực nên được gọi là Nhã ngữ với ý nghĩa ngôn ngữ thanh nhã. Đời nhà Chu, rồi nhà Hán, triều đình khuyến khích nói theo Nhã ngữ.

Vấn đề khác cũng cần minh định là ảnh hưởng của chữ viết tới sự hình thành ngôn ngữ phương Đông. Chữ tượng hình được phát hiện sớm nhất ở văn hóa Giả Hồ 9000 năm rồi ở văn hóa Bán Pha tỉnh Sơn Tây 6000 năm trước. Khảo cổ học cũng cho thấy, khoảng 4000-6000 năm cách nay, chữ tượng hình được khắc trên xẻng đá ở di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây. Chữ Lạc Việt sau đó được đưa lên đồng bằng Trong Nguồn, bây giờ là Trung Nguyên, vốn là một trung tâm lớn của người Dương Việt, để khắc lên xương thú và yếm rùa, về sau được gọi là văn Giáp cốt.

Chữ viết trên yếm rùa và xương thú là chữ đơn lập, không thể ghép vần. Tiếng Việt cổ vốn đa âm nên muốn được ký âm buộc phải đơn âm hóa. Do đó, tại trung tâm đầu não của người Việt, ít nhất là từ Quý Châu Quảng Tây tới Hà Nam, tiếng nói chuyển dần thành đơn âm. Một vấn đề khác nảy sinh: tiếng nói thì nhiều nhưng số chữ chế ra có hạn nên chỉ có những tiếng tiêu biểu mới được ký tự. Do vậy, chữ tượng hình tập hợp được những tiếng nói tiêu biểu nhất của người Việt. Đây là quá trình độc lập, diễn ra trong cộng đồng Việt mà người Hoa Hạ từ thời Hoàng Đế tới giữa đời Thương không biết. Khi vua Bàn Canh chiếm đất Hà Nam, lập nhà Ân (1384 TCN), mới biết chữ Giáp cốt của người Dương Việt. Với nhà nước được tổ chức tốt, Bàn Canh đã tiếp thu và cải tiến chữ của người Việt để ghi việc bói toán, cúng tế cùng địa lý, lịch sử (5). Trong triều đình nhà Ân, những “họa sư”- người vẽ chữ, “bốc sư”- thày bói, người Việt, được “lưu dụng” làm công việc này. Thay nhà Thương, nhà Chu chuyển sang viết chữ trên thẻ tre, trên lụa, cũng sử dụng nhiều ông thầy người Việt. Nhà Tần vốn là bộ lạc người Việt, khi dựng nước đã thể chế chữ Giáp cốt thành chữ Triện tồn tại tới nay. Như vây, có thể nói, không chỉ sáng tạo ra chữ Giáp cốt mà người Việt còn tích cực góp phần cải tiến, hoàn thiện chữ viết. Do đó quá trình đơn âm hóa tiếng nói được đẩy mạnh.

Sau đời Hán, Trung Quốc loạn lạc, nhiều triệu người thiểu số phía Tây thâm nhập, khiến cho tiếng nói bị pha tạp, theo hướng tăng cường giọng điệu du mục. Tiếng nói của cư dân trong vương triều thay đổi, dẫn tới việc người trong nước không hiểu được nhau. Để khắc phục, các vương triều dùng tiếng nói của kinh đô làm chuẩn mực giao tiếp của triều đình: quan thoại ra đời. Nhà Đường lấy tiếng nói của kinh đô Tràng An làm tiếng nói chính thức, được gọi là Đường âm. Đường âm là tiếng Việt được người Tràng An nói thời nhà Đường. Đấy là bộ phận tinh hoa của tiếng Việt được ký tự bằng chữ vuông. Đường âm được mang sang dạy và giao dịch ở Việt Nam. Khi giành được quyền tự chủ, nước ta thoát ách đô hộ của phương Bắc về chính trị, kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, văn tự tượng hình vẫn là chữ viết chính thống và Đường âm được duy trì dưới tên gọi là chữ Nho, chữ Thánh hiền. Trong khi đó, quan thoại của Trung Hoa biến cải theo sự thay đổi của vương triều và kinh đô. Tới giữa thế kỷ trước, tiếng Bắc Kinh là tiếng nói chính thống của Trung Hoa, chỉ được số lượng nhỏ người dùng. Nhà Mãn Thanh rồi chính quyền Quốc dân đảng không làm nổi việc thống nhất ngôn ngữ. Chỉ tới năm 1958, sau gần 20 năm nhà nước Trung Hoa nỗ lực thực hiện cuộc đồng hóa khốc liệt, tiếng Bặc Kinh mới được phủ sóng trên phần lớn lãnh thổ. Tuy nhiên, tới nay trong vùng Nam Dương Tử vẫn có khoảng 20% từ địa phương, truyền miệng trong dân gian mà không được ký tự.

Một vấn đề từ lâu được đặt ra: chữ Nho xuất hiện ở nước ta từ bao giờ? Chưa ai xác định được ! Chúng tôi không biết, hàng nghìn năm trong nước Văn Lang, vùng đất bây giờ là Việt Nam, chỉ cách Cảm Tang, Quý Châu khoảng 150 km, có sử dụng chữ tượng hình? Nhưng biết chắc, bộ lạc Thủy, di duệ của người Lạc Việt ở Quảng Tây, từ thời Tần Hán trốn vào rừng, bị thiểu số hóa, vẫn giữ được sách cổ ghi bằng chữ Thủy, tương tự Giáp cốt văn của tổ tiên Bách Việt, gọi là Thủy thư (5). Nay được coi là văn tự hóa thạch sống, một bảo vật văn hóa nhân loại. Một điều chắc chắn khác là, muộn nhất, chữ Nho có mặt ở nước ta thời Triệu Vũ Đế. Việc khám phá lăng mộ Triệu Văn Đế ở Quảng Châu với rất nhiều di vật khắc chữ Nho chứng tỏ điều này. Chắc chắn rằng, trong 100 năm xây dựng và bảo vệ Nam Việt, nhà Triệu đã dùng chữ Nho trong hành chính, luật pháp và dạy học. Vì vậy, khi sang nước ta, Mã Viện phát hiện “Luật Giao Chỉ có tới 10 điều khác luật nhà Hán”(6). Có phần chắc là luật Việt được viết bằng chữ Nho. Chúng tôi cũng nghĩ rằng, muộn nhất, tiếng Việt vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Trung Bộ, được đơn âm hóa từ thời nhà Triệu. Và cùng với việc phổ biến chữ Nho, tiếng Kinh ngày càng trở nên đơn âm.

Một câu hỏi: khi sang nước ta, người của Triệu Đà rồi quan quân nhà Hán nói tiếng gi? Sử ký viết, “Đà giết trưởng lại người Tần rồi đưa người của mình lên thay.” Triệu là một tiểu quốc của người Việt, nên Triệu Đà và tâm phúc của ông là người Việt (7). Xuống Giang Nam, người của ông gặp tiếng Việt Quảng Đông, Mân Việt, thứ tiếng Việt thanh nhã chuẩn mực. Thời Hán cũng tương tự, vì ngoài một số không nhiều quan cao cấp người phương Bắc thì tới nước ta phần lớn là người Giang Nam. Họ là người Việt, cho dù có nói ngược theo cách nói Hoa Hạ thì vẫn là tiếng Việt. Vì lẽ đó, rất có thể hai bên gần như hiểu được nhau. Vì vậy, việc học chữ Nho khá dễ dàng.

Về sau, qua mỗi thời đại, tiếng của quan quân phương Bắc lại khác đi. Đến thời Đường, tiếng nói của kinh đô Tràng An được dùng làm quan thoại. Thực chất, đó là tiếng Việt ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường. Điều này cho thấy một bộ phận tiếng Việt trải qua quá trình biến đổi dài từ đa âm, không thanh điệu, tới đây đã thành đơn âm và sáu thanh. Có lẽ, tiếng nói của bộ phận cư dân mà sau này là người Kinh cũng được chuyển hóa như vậy?

Sau thời Đường, nước ta độc lập, chữ Nho trở thành quốc ngữ. Theo dòng thời cuộc, tiếng nói của người Trung Hoa thay đổi, ngày càng xa gốc Việt. Chẳng những người Việt không hiểu tiếng người phương Bắc mà người Trung Quốc cũng không còn nói được Đường âm. Di sản vô giá thơ Đường chỉ còn người Việt Nam thưởng thức trong âm điệu tuyệt vời.

Từ phân tích trên chứng tỏ rằng, tiếng Việt không những không vay mượn mà trái lại, còn là gốc gác, là mẹ đẻ của ngôn ngữ Trung Hoa. Cái mà nay người ta quen gọi là “từ Hán Việt” là sự lầm lẫn lớn bởi chưa hiểu cội nguồn sinh học cũng như văn hóa dân tộc, trong đó có quá trình hình thành tiếng nói và chữ viết.


II. Vai trò của lớp từ Việt cổ trong văn hóa dân tộc

Như đã nói ở trên, tiếng thì nhiều nhưng chữ làm ra quá ít nên tổ tiên ta bắt buộc phải chọn thật kỹ những tiếng cần ký tự. Đó là những tiếng có nội dung sâu sắc, hàm chứa ý nghĩa uyên thâm, mà sau này được gọi là ngôn ngữ hàn lâm. Dù có áp dụng cách tạo từ đồng âm dị nghĩa thì cũng còn vô số tiếng không được ký âm vì không đủ chữ. Ở phía bắc Trung Hoa, dần dần những tiếng không được ký tự bị mai một.

Trong khi đó, ở miền nam, chúng trở thành từ địa phương, được truyền miệng trong dân gian. Ở Việt Nam tình hình tương tự. Khi làm chủ đất nước, người Việt thấy quá nhiều tiếng không có chữ, nên vào đời Trần đã mô phỏng chữ Nho để tạo ra chữ Nôm. Tuy nhiên, vì nhiều lẽ, chữ Nôm không được coi là văn tự chính thức. Mọi giao dịch hành chính đều phải dùng chữ Nho, nên nhiều địa danh phải chuyển sang chữ Nho, việc làm bất khả kháng ngày xưa khiến nay nhiều người bức thúc.

Một vấn đề cũng cần bàn cho ra lẽ, đó là tìm tên gọi xác đáng cho lớp từ đặc biệt này. Thoạt kỳ thủy, nó là Đường âm. Tới lúc nào đó được gọi là chữ Nho. Ở miền Nam cho tới năm 1975, gọi là cổ văn. Vào thập niên 1960, các học giả miền Bắc gọi là “từ Hán Việt”. Một thời gian dài nửa thế kỷ ta chấp nhận tên gọi đó vì tưởng rằng hợp lý. Nhưng bản thân khái niệm “từ Hán Việt” lại mâu thuẫn và vô nghĩa. Thuật ngữ này hàm ý: chữ của Hán, còn cách đọc của Việt, ghép lại thành “từ Hán Việt.” Nhưng như phát hiện của Nguyễn Tài Cẩn, cách đọc đó chính là tiếng nói ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường! Như vậy, theo cách hiểu hiện nay, cả chữ viết và cách đọc đều của người Hán, nên không thể là “từ Hán Việt!”. Nay ta thấy không thể tiếp tục dùng thuật ngữ sai lầm cũ. Nhưng dùng tên nào thích hợp hơn?

Đường âm là đúng nhưng bây giờ không thể trở lại tên gọi này vì đó là sản phẩm của một thời điểm lịch sử. Tiếng Hán không đúng vì đó không phải là tiếng nói thời nhà Hán, càng không phải tiếng nói của người Trung Hoa hôm nay. Có lẽ tên gọi chữ Nho phù hợp hơn cả, vì nó có nghĩa là chữ của nhà nho, sâu xa hơn, như phát hiện của triết gia Kim Định, là sản phẩm của văn hóa Việt nho nguồn cội. Sở dĩ gọi là “từ Hán Việt” vì người ta lầm tưởng đó là sản phẩm vừa của Hán vừa của Việt. Tuy nhiên cách hiểu như thế vừa không chính xác vừa gây phản cảm, đè nặng lên tâm trí chúng ta một cảm giác lệ thuộc bên ngoài. Thực chất, đó không phải “từ Hán Việt” mà là tiếng Việt cổ. Khác với nhiều ngữ khác, tiếng cổ là tử ngữ, thì trong ngôn ngữ Việt, tiếng Việt cổ vô cùng sống động. Lý do nó trở thành cổ ngữ là vì lịch sử dân tộc có biến động lớn, chữ Nho bị bãi bỏ để thay bằng thứ chữ viết khác. Mấy trăm năm trước, khi chuyển giao chữ La Tinh quốc ngữ cho chúng ta, một học giả phương Tây từng nói đại ý: Chúng ta trao cho người Annam một thứ chữ dễ học, giúp họ nhanh chóng bắt kịp đà văn minh. Nhưng chắc chắn nó sẽ làm cho thế hệ tương lai của họ cắt đứt với nguồn cội. Hôm nay, lời cảnh báo đó đã trở thành hiện thực với toàn bộ nền văn hóa Việt. Về ngôn ngữ thì đó là lớp lớp người Việt không hiểu tiếng nói của tổ tiên, như tác giả Trần Kinh Nghị than phiền. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần nhìn nhận lại gia sản quý giá này để sử dụng tốt nhất.

III. Kết luận

Hàng ngàn năm nay do ngộ nhận nên ta cho rằng, bộ phận tinh hoa, quan trọng nhất của tiếng Việt là đồ vay mượn! Sự lầm lẫn này đã tạo nên nỗi đau ngàn năm khi ta vừa căm ghét một công cụ mà trong quá khứ kẻ thù dùng để đồng hóa, nô lệ mình lại vừa không thể chối bỏ! Không thể không dùng nhưng rồi mỗi khi dùng lại day dứt nỗi niềm cay đắng mặc cảm vay mượn!

Nay chúng ta phát hiện ra sự thật: không hề có cái gọi là “Từ Hán Việt”! Đó chính là chữ Việt, tiếng Việt được tổ tiên ta sáng tạo trong quá khứ. Việc khẳng định bản quyền tiếng Việt cổ là khám phá có ý nghĩa đặc biệt, nó giúp ta tự tin, làm chủ tài sản vô giá của dân tộc. Vấn đề hiện nay là tuyên truyền để mọi người cùng hiểu. Công việc quan trọng khác là nghiên cứu sử dụng vốn tài sản này, làm phong phú ngôn ngữ, góp phần xây dựng văn hóa dân tộc.

Cái to nhất ngăn trở ta dám nhận lại tài sản vô giá này là thói nô lệ, thói tự kỷ ám thị nặng nề khiến ta vô thức đẩy nhiều di sản quý báu của tổ tiên cho người ngoài để rồi cúc cung làm chú học trò ngu ngơ, bị đè bẹp dưới cái bóng hoang tưởng!

Một khi nhận ra chủ quyền, ta sẽ làm gì với tài sản vô giá này?

Nhiều người đã hiểu cơ sự nên kiến nghị khôi phục việc học chữ Nho. Đấy là việc không thể không làm. Trước hết vì giá trị lớn lao của chữ Nho. Tính triết lý sâu xa, ý nghĩa thâm thúy của nó khác với bất cứ chữ viết nào, giúp người học rèn trí thông minh, luyện tư duy… Chỉ điều này mới giúp chúng ta tiếp nối với truyền thống, tránh được mối nguy mất gốc như học giả nước ngoài cảnh báo mấy trăm năm trước. Đó là việc cần chủ trương và kế hoạch lớn. Trước mắt, việc có thể làm ngay là, trong chương trình tiếng Việt phổ thông, nên bổ sung một số tiết giảng tiếng Việt cổ, nhằm giải nghĩa những từ thường dùng để học sinh hiểu và sử dụng đúng, đồng thời tập cho họ cách tra Từ điển tiếng Việt.

Chúng tôi xin mạo muội đề nghị, cần một cuộc cách mạng loại bỏ thuật ngữ “từ Hán Việt” khỏi ngôn ngữ Việt để thay vào đó tên gọi đúng: tiếng Việt cổ! Đồng thời dùng lại thuật ngữ chữ Nho để gọi văn tự của tổ tiên mà xưa nay vẫn lầm tưởng là chữ nước ngoài.

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Tài Cẩn – Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1979

2. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học, 2008.

3. Đỗ Ngọc Thành. Nhannamphi.com

4. Hà Văn Thùy. Chữ Việt chủ thể sáng tạo chữ viết Trung Hoa http://huc.edu.vn/chi-tiet/1868/Chu-Viet-la-chu-the-sang-tao-chu-viet-Trung-Hoa.html


6. Hậu Hán thư- Mã Viện truyện

7. Hà Văn Thùy – Nỗi bất an của lịch sử http://trannhuong.com/tin-tuc-15551/noi-bat-an-cua-lich-su.vhtm

Có cực đoan không?

Unknown | 8:56:00 AM | 0 comments
Tác giả: Vũ Đức Tâm
Mới đầu năm Giáp Ngọ mà thành ngữ « Mã đáo thành công » đã được sử dụng quá nhiều, đến độ sáo mòn. Trên lịch, trong bài viết, trên báo chí, thư từ trao đổi trên mạng... Khi gặp nhau ai ai cũng chúc nhau: « Mã đáo thành công ! ». Nghe mãi, nhàm tai, mình thử hỏi rất nhiều người hiểu thế nào về thành ngữ này. Đại đa số bảo thấy mọi người chúc nhau như vậy thì cũng bắt chước, hiểu đại khái là một câu chúc nhân năm Ngọ, chứ chả biết nghĩa thực sự nó là gì. Hóa ra, đa số chúng ta là những con vẹt, cứ lặp lại điều người khác nói mà chả hiểu nghĩa của nó.

Cách đây cũng khá lâu, mình cũng đã là một con vẹt như vậy. Vớ được thành ngữ này, nghe có vẻ oai oai thế là có dịp là dùng chả mảy may tự hỏi nó thực sự nghĩa là gì. Một lần bị một ông anh truy « mã đáo thành công » nghĩa là gì. Mình lúng túng bảo là..., là... ngựa đến thành công. Sao ngựa đến thì thành công, ông cật vấn tiếp. Mình ngớ ra, tịt.Lúc ấy, ông mới bảo đó là một điển tích Tầu. Xưa kia, trên các bình nguyên rộng lớn ở phía Bắc nước Tầu có nhiều ngựa hoang. Người ta thường thả ngựa nuôi ra để chúng dụ ngựa hoang. Nếu ngựa nuôi quay về mà lại có thêm ngựa hoang về theo nghĩa là thành công. Cũng có thể hiểu, ngựa trước đây được dùng làm phương tiện đi lại trong giao thương, trận mạc. Đi buôn bán xa xôi, ra trận mạc hiểm nguy mà quay về là thành công. Mình không còn là vẹt nữa, nhưng lại tự hỏi liệu có nên tiếp tục lạm dụng thành ngữ này nữa không.

Thế rồi, ngoài « Mã đáo thành công », những năm gần đây, mỗi khi tết đến, xuân về, người ta có xu hướng dùng những từ ngữ có phần cầu kì mang hơi hướng Tầu như : « Cung chúc Tân xuân », « An khang » « Tân niên lai đáo đa phú quí »,« Hồng phúc mãn đường », « Vạn sự cát tường »… để thay thế cho những lời chúc bình dị, dễ hiểu với đa số như : chúc mừng năm mới, dồi dào sức khỏe, hạnh phúc, bình yên, mọi sự may mắn… Hình như nói như thế mới sang, mới chứng tỏ ta…sành điệu ?

Tại sao người Việt mình gặp nhau dịp Tết, thay vì chúc nhau bằng ngôn ngữ gần gũi, dễ hiểu, thân thương lại cứ lặp đi lặp lại những thành ngữ, điển tích Tầu xa lạ. Chả nhẽ tiếng Việt của chúng ta nghèo nàn đến thế ư ? Thời toàn cầu hóa, xu hướng « tiếp biến văn hóa » (acculturation) giữa các nước là tất yếu và góp phần làm giàu cho văn hóa mỗi nước. Nhưng tiếp biến đến mức có nguy cơ làm mất bản sắc dân tộc thì hại nhiều hơn lợi.