Showing posts with label tín ngưỡng. Show all posts
Showing posts with label tín ngưỡng. Show all posts

TS. NGUYỄN THỊ HẬU TRẢ LỜI RFA VỀ KHẢO CỔ HỌC VÀ ĐỀN HÙNG

Unknown | 11:24:00 AM | 0 comments

RFA 12-4-14
Khảo cổ học về Đền Hùng tại Phú Thọ
Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok

Trong những ngày diễn ra Giỗ tổ Hùng Vương tại Đền Hùng nơi được xem như mảnh đất của các Vua Hùng khởi nghiệp, Mặc Lâm giới thiệu với quý thính giả cuộc trao đổi với TS khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu để biết thêm những kết quả mà giới khảo cổ đã tìm thấy tại đây chứng minh thế nào về sự hiện diện của thời đại các vua Hùng chung quanh địa danh có tính lịch sử này.

TS Nguyễn Thị Hậu đã có những sách về khảo cổ đã xuất bản như: Khảo cổ học tiền sử và sơ sử TP. Hồ Chí Minh, viết chung, 2008. Khảo cổ học bình dân Nam bộ - Việt Nam, từ thực nghiệm đến lý thuyết (2010) Văn hóa khảo cổ huyện Cần Giờ Tp Hồ Chí Minh (2012) TS Nguyễn Thị Hậu hiện là Phó Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử VN, Tổng Thư ký hội Sử học TP HCM, bà đang giảng dạy về Khảo cổ học, văn hóa học, bảo tồn bảo tàng… tại trường Đại học KHXH và Nhân văn TP HCM, Đại học Văn hóa TP HCM và nhiều trường đại học, cao đẳng khác.

Mặc Lâm: Theo nghiên cứu của khảo cổ học thì nền văn hóa Đông Sơn với các trống đồng nổi tiếng có liên quan như thế nào đến nhà nước Văn Lang sơ khai của “thời đại Hùng Vương”?

TS Nguyễn Thị Hậu: Nền văn hoá Đông Sơn là một văn hoá khảo cổ thuộc thời đại kim khí, phân bố tập trung ở vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ. Đến nay đã phát hiện và khai quật hàng ngàn di tích và tìm thấy hàng chục ngàn di vật của nền văn hoá này, trong đó nổi bật là các trống đồng Đông Sơn.  Về niên đại khảo cổ học thì chúng tôi nhận thấy các di tích này có niên đại tương đương về thời gian và không gian của truyền thuyết trong dân gian về thời đại Hùng Vương đó là vùng Phú Thọ Việt Trì và trung du củ đồng bằng Bắc bộ. Tất nhiên truyền thuyết không phải là lịch sử nhưng có chứa đựng một phần nào đấy của quá khứ nên nó được lưu truyền qua nhiều đời, như là một cách ghi nhớ cội nguồn của bất cứ cộng đồng người nào. Truyền thuyết về thời đại Hùng Vương cũng vậy.

Tư liệu khảo cổ học của chúng tôi cũng phải nghiên cứu cùng với tư liệu về văn hoá dân gian, dân tộc học và nhiều ngành khác, tài liệu khảo cổ học về văn hoá Đông sơn cho phép chúng ta tìm ra cốt lõi hay một chút sự thật của truyền thuyết về thời đại Hùng Vương: đã có nhiều bộ lạc người sinh sống ở vùng trung du – đồng bằng, biết dùng kim loại đồng, sắt làm vũ khí và công cụ sản xuất, biết trồng trọt, chăn nuôi, định cư thành làng tương đối lớn. Khi cần thiết thì liên kết với nhau để làm thuỷ lợi, trồng trọt khai phá đất đi hay chống ngoại xâm…  Đặc biệt những hình hoa văn trên trống đồng Đông Sơn còn phản ánh một số sinh hoạt đời thường hoặc lễ hội của cư dân nông nghiệp và ở vùng nhiệt đới có khá nhiều sông nước.

Có thể nhận biết từ đặc điểm của Văn hoá Đông Sơn những yếu tố dẫn đến sự hình thành một “nhà nước sơ khai” mà trong truyển thuyết của chúng ta đó là nước Văn Lang của Các Vua Hùng thì có ba yếu tố cơ bản. Yếu tố thứ nhất là yều tố ngoại sinh: mâu thuẫn và đấu tranh với thiên nhiên nhắm thích ứng với thiên nhiên, quan trọng nhất là hình thành hệ thồng thuỷ lợi cho canh tác nông nghiệp. Nó cũng là nguy cơ và thực tế đã xảy ra các xung đột giữa bộ lạc với nhau, theo truyển thuyết của Văn lang thì chúng ta có tới 13 bộ lạc.

Yếu tố thứ hai là yếu tố nội sinh sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh với kỹ thuật dùng cày được xem là tiên tiến, nhiều nghề thủ công ra đời, sản phẩm trở thành “hàng hoá” như đồ gốm, đồ đồng, đồ trang sức bằng đá…

Yếu tố ngoại sinh kết hợp với nội sinh ta cũng thấy thời kỳ này có quá trình giao lưu rộng rãi, trao đổi vật phẩm hàng hoá, tiếp thu kỹ thuật mới…Tất cả những điều đó làm cho xã hội có nền tảng kinh tế phát triển, nhu cầu cố kết để có sức mạnh quân sự, sự phân hoá xã hội ở một mức độ nhất định, nhu cầu mở rộng không gian sinh sống… là những yếu tố “cần” để một nhà nước sơ khai ra đời, như là hình thức Liên minh các bộ lạc mà người thủ lĩnh của Liên minh ấy được coi là “Vua”.

Mặc Lâm: Có hai khuynh hướng hiện nay, một là dùng các di vật khảo cổ để cố chính thức hóa hay hiện thực hóa các truyền thuyết về Thời đại Hùng Vương; hai là khuynh hướng nghiên cứu từ các cổ vật ấy xác định truyền thuyết đúng tới đâu. Bà chọn khuynh hướng nào?

TS Nguyễn Thị Hậu: Tôi không chọn khuynh hướng nào cả, đơn giản vì mục đích của Khảo cổ học không phải nhằm minh chứng cho cái gì đã có sẵn! Khảo cổ học nghiên cứu di tích di vật, căn cứ vào tính chất đặc điểm niên đại … chứng cứ như thế nào thì mình phải nói như thế. Cả hai khuynh hướng trên đều coi Truyền thuyết như là “sự thật lịch sử” nên làm cách nào cũng không có sự khách quan cần thiết của khoa học. Chúng ta đã biết truyển thuyết là một phần của quá khứ nhưng vì sao nó truyền đến bây giờ thì nó phải có một cái gì đó. Tôi nghĩ rằng kết quả nghiên cứu của khảo cổ học đa số đều tho khuynh hướng này tức là góp phần giải thích vì sao có truyền thuyết đó, truyền thuyết đó là như thế nào…cái thực chất của nó chứ không phải sự thật như thế nào.

Mặc Lâm: Quay lại với những ngày giỗ tổ mà chúng ta tổ chức hàng năm ở đền Hùng thì theo bà hệ thống di tích khảo cổ học chung quanh đền Hùng nói lên điều gì về đời sống cư dân thời đại các vua Hùng?

TS Nguyễn Thị Hậu: Di tích quan trọng nhất ở khu vực này là di tich Làng cả, Việt trì, và hệ thống hàng trăm di tích khảo cổ học dày đặc, tầng văn hoá tức là dấu tích con người để lại, dày nhiều mét. Các dấu tích cư trú định cư thành xóm làng đông đúc và lâu đời. Nhiều dấu tích của nghề nông trồng lúa nước, di tích Gò Đồng Đậu tìm thấy một hố đầy thóc, những di tích khác đều có thóc trong địa tầng, vỏ trấu trong mảnh gốm…, kỹ thuật nông nghiệp dùng cày đã khá phổ biến, giai đoạn trước chủ yếu dung cuốc với kỹ thuật canh tác nương, rẫy. Đây là kỹ thuật nông nghiệp tiến bộ của thời bấy giờ với sức kéo của động vật là con trâu. Xương trâu bò tìm thấy khá nhiều. Nông cụ có nhiều loại như cuốc, xẻng, cày… có những nông cụ dùng trong việc thuỷ lợi như đào kênh mương như mai, thuổng…

Từ lúc này, định cư và nông nghiệp trồng lúa nước bắt đầu trở thành truyền thống lâu đời của người Việt cổ.

Người xưa phát triển nghề làm gốm tạo ra các đồ dung sinh hoạt như nồi, vò nhiều kích thước. Có những di tích mảnh gốm dày đặc, độ nung gốm khá cao, trang trí hoa văn rất đẹp nhất là trong đồ gốm của văn hoá Phùng Nguyên vùng Phú Thọ. Hoa văn gốm Phùng Nguyên sau này được tái hiện trong nhiều đồ đồng Đông Sơn.

Đặc biệt kỹ thuật luyện kim đã đạt đến trình độ cao, nhất là các trống đồng Đông Sơn có hoa văn chạm khắc tinh xảo, sinh động, cho ta nhận biết nhiều sinh hoạt đời thường như giã gạo, săn thú, múa hay những nghi lễ, lễ hội… cảnh chèo thuyền, đánh trống đồng, trang phục của người thời Hùng Vương khá phong phú.

Cuối thời kỳ văn hoá Đông Sơn đã xuất hiện kỹ thuật rèn sắt, đã tìm thấy những lưỡi cày sắt ở vùng Cổ Loa, Hà Nội. Có lẽ đã có những xung đột giữa các bộ lạc, các cộng đồng nên vũ khí rất nhiều loại hình như giáo, kiếm, rìu, dao găm… số lượng lên đến hàng chục ngàn di vật…Nhiều loại hình mộ táng khác nhau cho thấy quan niệm về cái chết, tín ngưỡng về thế giới bên kia … khá đa dạng.

Dựa trên số lượng di tích, mật độ phân bố, quy mô di tích, loại hình di vật, địa bàn phân bố từ miền núi đến đồng bằng, từ trung du tới ven biển… các nhà nghiên cứu cho rằng đây là thời kỳ phát triển cao của nền văn minh kim loại, cơ sở quan trọng đề hình thành nhưng hình thức tổ chức xã hội cao hơn công xã nguyên thuỷ, đó là bộ lạc và liên minh bộ lạc.

Mặc Lâm: Giỗ tổ Hùng Vương dưới cái nhìn khảo cổ học cần được thực hiện thế nào cho đúng với tinh thần khoa học?

TS Nguyễn Thị Hậu: Giỗ tổ Hùng Vương là một tín ngưỡng phổ biến nhiều nhất ở vùng Phú Thọ - tương truyền là Đất tổ Hùng Vương. Sau này, từ đầu thế kỷ XX phổ biến rộng hơn ở vùng Bắc bộ. Đây là một loại hình tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, lễ hội diễn ra vảo tháng 3 âm lịch cũng là tháng kết thúc mùa khô bước vào mùa mưa – thời điểm của một chu kỳ nông nghiệp. Có thể coi lễ hội này nằm trong chuỗi lễ hội mùa xuân rất phổ biến ở miền Bắc. Vì những giá trị đó mà Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá Phi vật thể của thế giới.

Tôi cho rằng cần giữ gìn giá trị nguyên bản của di sản văn hoá này, bởi vì nếu chúng ta can thiệp, tổ chức không khéo, đưa quá nhiều yếu tố hiện đại vào lễ hội này thì lễ hội sẽ bị biến dạng nhanh chóng. Quan trọng là nó không còn là của DÂN, và do đó, nguy cơ để lại cho đời sau một di sản ít nhiều bị thay đổi giá trị.

Mặc Lâm: Xin cám ơn bà. 

NHÂN NGÀY GIỖ TỔ, CÙNG CƯỜI VỠ BỤNG MỘT TRẬN NGẢ NGHIÊNG TRỜI ĐẤT

Unknown | 9:30:00 AM | 0 comments
Hôm nay Giỗ Tổ, lại nói đến chữ TỔ 祖. Chữ này gồm 2 bộ phận: Bộ phận bên trái là bộ "Kỳ", nghĩa là Thần đất. Nó có hình dạng một cái đài thờ, một cây hương, bệ thờ đặt trên một cây ba chạc, biểu tượng cho Thờ Cúng.
Bên phải là bộ "Thả" (xem hình bên dưới), có hình dạng của cái Dương Vật - có khấc hẳn hoi, tượng trưng cho đàn ông/nam giới.
Cả chữ Tổ này ngụ ý nói đến việc thờ cúng Tổ tiên - nòi giống được duy trì bởi những ngườiđàn ông các thế hệ nối nhau. Là hồi đi học, thầy cháu dạy thế!

_________________________

 

NHÂN NGÀY GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG


Võ Lão Nông 

Nghe nói ngày xưa, rất xưa, ở Lĩnh Nam có một chàng trai khỏe mạnh, khôi ngô, hào hoa phong nhã tên là Lạc Long Quân. Một hôm lên núi rong chơi, săn bắn, tình cờ gặp nàng Âu Cơ xinh đẹp, con gái một vị tù trưởng. Nhanh như chớp, trai tài gái sắc yêu nhau và lấy nhau. Trong đêm tân hôn, Âu Cơ cho chàng uống rượu ngâm sừng tê giác với củ sâm ngàn năm, chàng hỏi rượu gì mà vừa uống đã nghe sung, nàng nói rượu nầy uống vô để tăng nhanh nòi giống, vì xứ mình đất rộng người thưa. Quả nhiên, 9 tháng 10 ngày sau, nàng Âu Cơ đẻ ra cái bọc 100 trứng, trứng nào trứng nấy to như trứng đà điểu. Cứ lần lượt mỗi giây là một trướng khẻ mỏ, một chàng trai chui ra, vai u thịt bắp, 100 trứng, nở đủ trăm con (có người nói chỉ nở 97 con, có 3 trứng không trống, lại có người nói có 3 trứng lưỡng tính, nở ra nửa trai nửa gái, thành BD sau nầy).

Hai người ăn ở với nhau một thời gian thì gây gổ lung tung. Lạc Long Quân suốt ngày lẻn vào rừng lấy trầm hương, săn tê giác, cốt ngà voi đem bán, còn Âu Cơ thì lẽn xuống biển lấy ngọc trai làm trang sức. Cuối cùng họ đâm đơn ra tòa ly dị. Tòa luận rằng, Lạc Long Quân là cốt rồng, còn Âu Cơ là cốt tiên nên ăn ở lâu dài vơi nhau không được. Cuối cùng tòa phán rằng: Chấp thuận cho hai người ly dị, con cái chia đôi, Lạc Long Quân mang 50 người con xuống biển.

Năm ngoái, tình cờ hai người gặp nhau, ôm nhau khóc sướt mướt. Lạc Long Quân nói, tài nguyên biển bây giờ cạn kiệt, lại thêm bọn cướp biển lấn chiếm mấy quần đảo của ta. Không biết sắp tới ta sống thế nào đây. Hay là chúng ta tái hôn, ta lên rừng ở với nàng, ta hứa sẽ không lấy trầm hương, không săn tê giác, không cốt ngà voi nữa. Âu Cơ nói, rừng còn đâu nữa chàng ơi, lớp lâm tặc, lớp thủy điện, núi rừng thành đồi trọc hết rồi. Ngẫm nghĩ, Lạc Long Quân nói: Hay là, ta với nàng làm một chuyến đi thăm các con xem sao, ta nhớ chúng nó quá. Bốn ngàn năm rồi còn gì, ngày ta với nàng chia tay, con chúng ta chỉ có trăm đứa, bây giờ hơn tám mươi triệu đứa rồi.

Một đàn con tổ chức đón tổ phụ tổ mẩu rất rình rang, chúng đi toàn lexus, Rolls-Royce, có đứa đi cả phi cơ ra đón, chúng khui rượu tây như nước, đứa nào cũng khoe mình giàu nhất trong dòng dõi rồng tiên. Tổ phụ tổ mẩu tỏ ra mừng lắm. Lạc Long Quân hỏi, các con làm gì mà giàu dữ vậy, dạ tụi con kinh doanh đất đai, Âu Cơ hỏi, kinh doanh đất đai, đất đâu mà kinh doanh, ăn cướp à ? Dạ không, đất của phụ mẩu để lại là đất chung của bá tánh, đâu có đứa nào được sở hữu riêng đâu à, tui con muốn lấy thì lấy. Lạc Long Quân gật gật. Các con tranh nhau nói, phụ mẩu về ở với tụi con, muốn bao nhiêu Resort dưới biển, trên rừng cũng có.

Một năm sau, tức hai tháng trước, Lạc Long Quân và Âu Cơ trở về theo lời đề nghị của các con, nhưng không thấy đứa nào ra đón. Hỏi ra mới biết, bọn chúng bị vỡ nợ.
Nguồn: FB Võ Lão Nông


Trong một bài văn của học sinh về sự tích Sơn Tinh - Thủy Tinh:
"Vua Hùng có một làng (nàng) công chúa".
_____________
Những sự đầu tiên, từ "thời đại Hùng Vương": 
- Người đầu tiên có thể sống dưới nước mà không cần bình dưỡng khí: Lạc Long Quân.
- Người đàn bà đầu tiên trên thế giới đẻ ra “trứng”: Âu Cơ
- Người trẻ tuổi nhất hành tinh bay vào vũ trụ: Thánh Gióng
- Robot đầu tiên là cái gì và ai tạo nên? câu trả lời: Con ngựa sắt của Thánh Gióng và người làm nên là nhà nước Việt Nam cổ.
- Súng tiểu liên đầu tiên do ai làm ra, và nó là cái gì? trả lời: đó là cây nỏ thần của vua An Dương Vương
- Công nghệ đánh bóng ngọc trai đầu tiên trên thế giới: máu của Mị Châu
- Điệp viêu siêu đẳng đầu tiên của thế giới: Trọng Thủy (làm gián điệp để ăn cắp nỏ)
- Cặp vợ chồng đầu tiên thực hiện chính sách chia gia sản: Âu Cơ và Lạc Long Quân. (50 con xuống nước, 50 con lên núi)
- Người đầu tiên mang hàng giả vào Việt Nam: Trọng Thủy (mang nỏ thần giả cho AN Dương Vương)
- Người biết tiếp thị đầu tiên: Mai An Tiêm (Ông này đi tiếp thị … dưa)
- Người đi du lịch đại dương đầu tiên: An Dương Vương (Ông này đi tới giờ chưa về – chắc chắn ông phá kỷ lục của Nemo rồi)
- Người đánh ghen nhân từ nhất: Thủy Tinh: (Tay này chỉ lấy … nước tạt tình địch chứ không chơi … axit).
- Trẻ vị thành niên tham gia quân đội sớm nhất: Thánh Gióng : Ông này thì khỏi nói, 3 tuổi đã làm tướng đi đánh giặc.
- Mối tình sét đánh kinh nhất: Tiên Dung – Chử Đồng Tử: Gặp phát … cưới liền. 
Sưu tầm 

Con cháu Vua Hùng cũng đã dâng các lễ vật khủng dâng lên Vua Hùng các lễ vật: 
- Bánh chưng khổng lồ - đưa từ miền Nam ra, nhưng khi cắt ra để chia thì ôi thiu hết, phải vứt bỏ. 
- Bát miến khổng lồ. 
- Chai rượu 4000 lít để chuốc cho Vua Hùng say tít cung mây. 
- Bình trà khổng lồ dâng vua Hùng uống để Vua Hùng mất ngủ, thức triền miên lo cho con cháu. 

Thật là: 
Chung quy cũng tại Vua Hùng 
Đẻ ra một lũ vừa khùng vừa điên!
______________

Hậu Khảo cổ:
Sự công bằng

Vua Hùng thách cưới toàn sản vật núi rừng “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao”. Trong cuộc chiến giành nàng Mỵ Nương, Sơn Tinh không thắng mà Thuỷ Tinh cũng không thua, vì cơ hội trổ tài của hai người không công bằng. Sự thiên vị của Vua Hùng đã để lại hậu quả là một mối thù dai dẳng. 

Thế mà “dư luận” thì luôn bênh vực Sơn Tinh và lên án Thuỷ Tinh. Xem ra việc “phò thịnh, hạ suy” cũng đã có từ xưa rồi nhỉ?!


(truyện 100 chữ,trong tập NHỮNG MẢNH VỠ)


"TỨ BẤT TỬ" LÀ NHỮNG VỊ NÀO VÀ CÓ TỪ BAO GIỜ?

Unknown | 4:30:00 AM | 0 comments

TỨ BẤT TỬ TRONG TÂM THỨC VIỆT NAM
Nguyễn Xuân Diện
Lời dẫn của tác giả: Nhân ngày Giổ tổ năm Giáp Ngọ 2014, xin giới thiệu lại bài viết về Tứ Bất tử của Nguyễn Xuân Diện viết năm 1996. Trong các vị "Tứ Bất Tử" có 3 vị hiển thánh từ thời Hùng Vương, và đặc biệt, 2 trong 3 vị là con rể của Vua Hùng.
Trong tín ngưỡng thờ bách thần của người Việt, “hoặc có vị là tinh túy của núi sông, hoặc có vị là nhân vật linh thiêng, khí thế lừng lẫy về trước, anh linh còn mãi về sau” (Lời tựa sách Việt điện u linh), nhưng có 4 vị thần được dân gian tôn vinh là Tứ bất tử. Đó là bốn vị linh thiêng trường sinh bất tử trong thần điện Việt Nam. Mọi người vẫn cho rằng đó là Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử, Tháng Gióng và Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Thực ra, trong lịch sử đã đã diễn ra không phải hoàn toàn như vậy, và trong chúng ta không phải ai cũng biết Tứ bất tử là những ai và có từ bao giờ.   

Những ghi chép trong thư tịch cổ

Tài liệu xưa nhất về thuật ngữ Tứ bất tử mà chúng tôi được biết là bản Dư địa chí, in trong bộ Ức Trai di tập, (VHv.1772/3 q.6) do Nhà in Phúc Khê, in năm Mậu Thìn (1868) niên hiệu Tự Đức.

Bản Dư địa chí mà chúng ta hiện có là một công trình nghiên cứu tập thể. Ngoài lời tập chú của Nguyễn Thiên Túng, lời cẩn án của Nguyễn Thiên Tích và lời thông luận của Lý Tử Tấn, Dư địa chí còn có những phần do người các thời sau (cụ thể là người các thế kỷ 16, 17, 18) đã thêm vào và sửa chữa nhiều lần. Trong số họ, có Thư Hiên Nguyễn Tông Quai (1693-1767). 

Thư Hiên Nguyễn Tông Quai ở thế kỷ XVII là người đầu tiên giải thích thuật ngữ Tứ bất tử, khi ông chú giải điều 32 trong sách Dư địa chí (VHv.1772/3 tờ 13a) của Nguyễn Trãi. 

Lời chú ấy như sau: “... Người đời Thanh nói: Tản Viên Đại Vương đi từ biển lên núi, Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa bay lên không trung, Đồng tử nhà họ Chử gậy nón lên trời; Ninh Sơn (nay là Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh in dấu vào đá để đầu thai. Ấy là An Nam Tứ bất tử vậy” (Nguyễn Thư Hiên viết: ... Thanh nhân xưng Tản Viên Đại Vương chi tự hải vãng sơn; Phù Đổng Thiên Vương chi kỵ mã đằng không; Chử gia Đồng tử chi trượng lạp thăng thiên; Ninh sơn (kim Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh chi ấn thạch đầu thai. Vị An NamTứ bất tử vân).

Giá Sơn Kiều Oánh Mậu (1854-1911) người làng Đường Lâm  là nhà học giả nổi tiếng của cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trong lời Án sách Tiên phả dịch lục (AB.289, tờ 4a), in năm Canh Tuất 1910 có viết: 

“Tên các vị Tứ bất tử của nước ta, người đời Minh cho là: Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đúng là như vậy. (Vì) bấy giờ Tiên chúa (Liễu Hạnh) chưa giáng sinh nên người đời chưa thể lưu truyền, sách vở chưa thể ghi chép. Nay chép tiếp vào. (Án: Ngã Tứ bất tử chi danh, Minh nhân dĩ Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đương chi nhiên; thử thời Tiên chúa vị giáng, cố vị cập thế nhân sở truyền, văn hiến khả trung. Kim tục chi).

Trên đây là những thông tin về Tứ bất tử trong thư tịch Hán Nôm, hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các tài liệu tiếng Việt hiện đại về Tứ bất tử thì phong phú hơn nhiều. Dưới đây, chúng tôi xin điểm qua những tài liệu đó: 

Nguyễn Tuân (1910-1987), trong thiên truyện Trên đỉnh non Tản in trong tập Vang bóng một thời, có viết: “... Bốn vị Tứ bất tử nơi thế giới u linh: thánh Tản Viên, chúa Liễu Hạnh, Chử Đồng Tử, và Phù Đổng thiên vương”. 

Hà Kỉnh (1922-1995) trong cuốn Truyền thuyết Sơn Tinh viết: “Ở Việt Nam ta có bốn vị thần bất tử là: Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Bà chúa Liễu Hạnh, Tản Viên Sơn Thần”. 

Vũ Ngọc Khánh và Ngô Đức Thịnh, trong chuyên khảo Tứ bất tử chỉ thấy trình bày về bốn vị thánh bất tử gồm: Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ, Đức Thánh Gióng và Thánh Mẫu Liễu Hạnh.  

Bảng thống kê dưới đây sẽ cho thấy sự xuất hiện của các vị Tứ bất tử trong các tư liệu kể trên (số thứ tự như số thứ tự các đơn vị tư liệu đã trình ở trên):

STT
Tản Viên
Sơn Thánh
Chử
Đạo Tổ
Thánh Gióng
Từ Đạo Hạnh
Nguyễn
Minh Không
Liễu Hạnh
1
+
+
+
+


2
+
+
+

+

3
+
+
+


+
4
+
+
+


+
5
+
+
+


+

Như vậy các vị Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ và Thánh Gióng luôn luôn cố định và nhất quán trong các tài liệu, các thời đại. Khi Liễu Hạnh chưa giáng sinh thì Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không được xếp vào hàng Tứ bất tử. Thư tịch cổ cũng cho biết rằng, việc người Việt thờ phụng Tứ Bất Tử được người Trung Hoa biết đến và ghi nhận. Điều đó chứng tỏ việc phụng thờ Tứ Bất tử là một nét tâm linh rất độc đáo và riêng khác của người Việt. 

Lý giải về Tứ bất tử

Trước hết, nói về con số bốn (tứ). Trong tư duy của người Việt, con số này mang tính ước lệ và có ý nghĩa lớn. Tứ (bốn) là một hằng số được dùng để khái quát về một phạm trù nào đó. Ví dụ: Tứ trấn, An Nam tứ đại tài, Tràng An tứ hổ, Sơn Tây tứ quý, Mỗ-La-Canh-Cót tứ danh hương v.v..

Và việc chọn lấy 4, trong toàn thể của một tập hợp là chọn lấy những gì tiêu biểu nhất, độc đáo nhất và có tính thời đại.
 
Từ bất tử cũng là một tập hợp như vậy. Cũng chính vì thế mà có đến 6 vị thánh được coi là bất tử trong tín ngưỡng dân tộc Việt. đó là các vị: Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ, Thánh Gióng, Liễu Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không. 

Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh:

Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh là tên gọi của vị Thần núi Tản, vị thần tối cổ trong tâm linh dân tộc Việt. Tản Viên Sơn tức là núi Ba Vì, “núi tổ của nước ta” (Nguyễn Trãi - Dư địa chí). Núi có ba ngọn cao chót vót. Ba anh em Thánh Tản (còn gọi là Tam vị Đại Vương Quốc chúa Thượng đẳng thần) chia nhau cai quản, mỗi người một ngọn núi.

Xuất phát từ nhận định cốt lõi tín ngưỡng Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh là TÍN NGƯỠNG THẦN NÚI (Sơn Tinh, Sơn thần) nằm trong hệ thống tín ngưỡng các hiện tượng tự nhiên, chúng tôi khẳng định rằng, nói Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh là nói tới cả ba anh em thần núi. Như vậy, đương nhiên cả ba vị thần đó đều thuộc Tứ bất tử

Cũng từ cốt lõi của tín ngưỡng thần núi của người Việt, cho nên có hiện tượng công chúa Ngọc Hoa, vợ của Thánh Tản (người anh cả) không được đề cao ngang hàng với Tam vị Tản Viên Sơn Thánh, dù rằng ở một só làng nơi giáp ranh giữa Sơn Tây, Ba Vì, Phú Thọ vẫn có những lễ hội đề cao Ngọc Hoa. 

Văn tế, sự sắp xếp các ngai thờ, nghi lễ, tự khí... mà chúng tôi khảo sát tại những ngôi đền thờ Thánh Tản ở vùng xung quanh núi Ba Vì càng góp phần làm sáng tỏ cho những nhận định trên đây. 

Chử Đạo Tổ: 

Nếu như ở huyền thoại Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh, người ta có thể tìm thấy những lớp ý nghĩa cổ xưa nhất của tín ngưỡng chất phác, nguyên thủy bằng cách bóc tách những lớp trầm tích tiềm ẩn trong văn bản thần tích thì với huyền thoại Chử Đồng Tử, công việc trở nên rất khó khăn. Huyền thoại Chử Đồng Tử (Chử Đạo Tổ) là câu chuyện của Đạo Giáo, Đạo Thần Tiên, một tín ngưỡng vốn du nhập từ bên ngoài vào nước ta từ rất sớm. Cốt lõi huyền thoại cũng như tín ngưỡng Chử Đạo Tổ là tín ngưỡng Đạo giáo mang màu sắc tín ngưỡng dân gian thuần Việt. Chử Đồng Tử chính là người đi tiên phong trong cuộc thụ phép thần tiên để tế độ và truyền dạy cho người khác. Dân gian tôn vinh Chử Đồng Tử là Chử Đạo Tổ là vì thế.

Khảo sát hệ thống thờ tự ở đền chính thờ Chử Đồng Tử ở Đa Hòa, chúng tôi thấy, từ rất xa xưa, ở đó đã có ba pho tượng đồng và ba pho tượng đất mà cứ vị ngồi ở giữa là Chử Đạo Tổ, hai vị ở hai bên là Tiên Dung và Nội Trạch Tây Cung. Ở đình Tự Nhiên (huyện Thường Tín, Hà Tây), đối diện với Đa Hòa qua sông Hồng, khi mở hội cũng rước ba cỗ long kiệu ba vị kể trên. 

Mặc dù vậy, nếu xuất phát từ cốt lõi tín ngưỡng Chử Đạo Tổ thì trong số ba vị này, chỉ có Chử Đồng Tử, là thuộc về Tứ bất tử, của tâm thức dân gian Việt Nam. 

Thánh Gióng
là vị “anh hùng độc lập” trong Tứ bất tử. 

Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Liễu Hạnh và quá trình hội nhập vào Tứ bất tử:

Trước kia, khi Liễu Hạnh chưa xuất hiện (giáng thế) thì Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không là một trong Tứ bất tử có lẽ là từ những “tiêu chí” sau đây:

- Cả hai vị đều “giáng sinh” trong một triều đại sớm của lịch sử Việt Nam.

- Từ hai vị này đều làm nảy nở những câu chuyện đậm màu sắc Đạo giáo - một tín ngưỡng sớm đến với Việt Nam và có nhiều khả năng hội nhập với tín ngưỡng bản địa. 

- Hai vị này đều hóa thân sau khi mất, và đầu thai thành nhiều kiếp.

Khi Liễu Hạnh “giáng sinh” vào khoảng thế kỷ XVI cũng chính là lúc ý thức hệ Nho giáo ở nước ta đang đi vào con đường suy thoái. Thực trạng xã hội loạn lạc, chiến tranh giết tróc, làm cho nhân dân vô cùng cực khổ, khao khát cháy bỏng về một cõi tâm linh an lạc, siêu thoát. Phật giáo và Đạo giáo có cơ phát triển trong dân gian. Về Phật giáo, quan niệm Tịnh Độ tông với lối sống từ bi hỷ xả, với phương thức thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, với tính chất dung hòa và phổ cập đã trở nên thắng thế và phổ biến trong suốt các thế kỷ XVI và XVII. Còn Đạo giáo, với những bùa chú, phép thuật, với những lối hành đạo phức tạp bởi những biểu tượng đã nhiều lúc trở thành cứu cánh để người ta tìm về làm chỗ dựa và nuôi dưỡng niềm tin về sự giải thoát. Nội Đạo tràng ra đời vào lúc này và sớm trở nên thịnh hành, được vua Lê thừa nhận. Tín ngưỡng tam phủ, mà trung tâm là thờ Mẫu hình thành và phát triển khá nhanh.
Liễu Hạnh “giáng thế” đáp ứng nhu cầu thỏa mãn tâm linh của mọi giai tầng trong xã hội, phù hợp với tâm thức dân gian Việt Nam. Nếu so với Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không thì sự phụng thờ Liễu Hạnh bắt nguồn sâu xa từ trong tín ngưỡng thuần Việt của tâm thức dân gian, rồi lại xâm thực và hòa đồng vào tín ngưỡng Tứ phủ, nên tín ngưỡng này mang nhiều hơi hướng thời đại, cập nhật và phù hợp với thực tại. Ra đời trong thời kỳ đó, và với vai trò như vậy, việc tín ngưỡng Liễu Hạnh trở thành trung tâm của tín ngưỡng Tứ phủ và hội nhập với Tứ bất tử, trở thành biểu tượng của sự trường tồn là một điều dễ hiểu. 

Từ đó đến nay, tín ngưỡng Tam phủ rồi Tứ phủ luôn luôn là một trong những trung tâm tín ngưỡng của tâm thức dân gian. Ảnh hưởng của tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh mang tính bao trùm, có phạm vi rộng lớn hơn so với ảnh hưởng của Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không là điều đã khẳng định trong dân gian. 

Tóm lại, trong tâm thức dân gian Việt Nam từng có Tứ bất tử. Các vị từng được coi là có chân trong Tứ bất tử gồm:

- Tản Viên Sơn thánh (3 anh em)
- Chử Đạo Tổ
- Thánh Gióng
- Thánh Láng Từ Đạo Hạnh
- Nguyễn Minh Không
- Thánh Mẫu Liễu Hạnh
 
Qua thời gian, cùng với sự xuất hiện những yếu tố mới, mang tính thời đại về tư tưởng, triết lý, quan niệm thì niềm tin, tín ngưỡng, quan niệm về Tứ bất tử có sự thay đổi, dẫn đến việc Thánh Mẫu Liễu Hạnh thay thế Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, đứng vào hàng Tứ bất tử như là một tất yếu.

Tuy nhiên, những cắt nghĩa trên đây chỉ là những nét phổ quát nhất, trên mặt bằng tín ngưỡng của dân gian trong phạm vi rộng lớn, mang đặc điểm chung nhất. Ở một số nơi, một số vùng, quan niệm tín ngưỡng vẫn có những nét riêng, và tất nhiên, không phổ biến và chỉ có ảnh hưởng ở phạm vi nhỏ, hẹp. 

Việc phụng thờ Tứ Bất tử là một tín ngưỡng thuần túy Việt Nam, kết tinh từ những truyền thuyết đẹp đẽ và là một bộ phận không thể tách rời trong di sản tôn giáo và tinh thần của đất nước. Và chính người Trung Quốc, từ bao đời nay cũng đã biết đến và ghi nhận tín ngưỡng Tứ Bất tử của Việt Nam.

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 1996