Showing posts with label trí thức. Show all posts
Showing posts with label trí thức. Show all posts

CÁC QUAN CHỨC HÙN NHAU GÓP TIỀN DỊCH VÀ IN SÁCH HƯỚNG DẪN VỀ SEX

Unknown | 5:52:00 PM | 0 comments
Tranh cổ Nhật Bản
Từ năm 1903 các quan chức và nhà Nho đã hùn nhau dịch sách và in sách về chuyện "ẤY" để phổ biến Kiến thức:
- Án sát Nam Định (tương đương Viện trưởng Viện Kiểm sát Nam Định) góp 30 đồng bạc
- Tri huyện Phúc Thọ (tương đương Chủ tịch huyện Phúc Thọ) góp 10 đồng bạc
- Tri phủ Thuận Thành (gần ngang chủ tịch tỉnh Bắc Ninh) góp 6 đồng bạc
để in sách hướng dẫn về Sex.
Tên sách: NAM NỮ GIAO HỢP PHỤ LUẬN là sách của Tây, các cụ dịch ra chữ Nho và phổ biến bằng cách khắc in vào năm 1903. NAM NỮ GIAO HỢP là phần dịch từ sách Tây, còn Phụ luận là phụ chép lời bình luận của Cụ Phó bảng Giá Sơn Kiều Oánh Mậu, người Đường Lâm - Xứ Đoài. (xem tiểu sử cụ tại đây)
Sách khắc in năm Quý Mão, niên hiệu Thành Thái (1903). Bản in hiện còn lưu trữ tại Thư viện Quốc gia (Hà Nội) ký hiệu R.393.
Sách có nhiều hình vẽ khá thú vị về tinh trùng, trứng, dương vật và âm vật v.v.
Trong một lời luận bàn, Giá Sơn Kiều Oánh Mậu viết: "Ngạn ngữ nước Nam ta có tứ Khoái Ăn - Ngủ - Đụ - Ị. và xếp ĐỤ chỉ ở sau Ăn và Ngủ thì biết là các cụ không dám coi thường cái chuyện "ấy" đâu!".
Cuốn sách cũng hay quá! Mà bây giờ không mấy người đọc được chữ Nho. Tự nhiên nảy ra cái ý muốn dịch nó ra Việt văn, mà chưa có kinh phí để làm và để in.
Nhờ các bác đánh tiếng với các quan chức thời nay, nhất là các bác Viện trưởng Viện Kiểm sát tỉnh Nam Định, Chủ tịch huyện Phúc Thọ và Chủ tịch tỉnh Bắc Ninh, biết đâu các vị ấy sẽ giúp ít tiền để dịch và in sách! he he....
Lâm Khang

TS. NGUYỄN THỊ HẬU TRẢ LỜI RFA VỀ KHẢO CỔ HỌC VÀ ĐỀN HÙNG

Unknown | 11:24:00 AM | 0 comments

RFA 12-4-14
Khảo cổ học về Đền Hùng tại Phú Thọ
Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok

Trong những ngày diễn ra Giỗ tổ Hùng Vương tại Đền Hùng nơi được xem như mảnh đất của các Vua Hùng khởi nghiệp, Mặc Lâm giới thiệu với quý thính giả cuộc trao đổi với TS khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu để biết thêm những kết quả mà giới khảo cổ đã tìm thấy tại đây chứng minh thế nào về sự hiện diện của thời đại các vua Hùng chung quanh địa danh có tính lịch sử này.

TS Nguyễn Thị Hậu đã có những sách về khảo cổ đã xuất bản như: Khảo cổ học tiền sử và sơ sử TP. Hồ Chí Minh, viết chung, 2008. Khảo cổ học bình dân Nam bộ - Việt Nam, từ thực nghiệm đến lý thuyết (2010) Văn hóa khảo cổ huyện Cần Giờ Tp Hồ Chí Minh (2012) TS Nguyễn Thị Hậu hiện là Phó Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử VN, Tổng Thư ký hội Sử học TP HCM, bà đang giảng dạy về Khảo cổ học, văn hóa học, bảo tồn bảo tàng… tại trường Đại học KHXH và Nhân văn TP HCM, Đại học Văn hóa TP HCM và nhiều trường đại học, cao đẳng khác.

Mặc Lâm: Theo nghiên cứu của khảo cổ học thì nền văn hóa Đông Sơn với các trống đồng nổi tiếng có liên quan như thế nào đến nhà nước Văn Lang sơ khai của “thời đại Hùng Vương”?

TS Nguyễn Thị Hậu: Nền văn hoá Đông Sơn là một văn hoá khảo cổ thuộc thời đại kim khí, phân bố tập trung ở vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ. Đến nay đã phát hiện và khai quật hàng ngàn di tích và tìm thấy hàng chục ngàn di vật của nền văn hoá này, trong đó nổi bật là các trống đồng Đông Sơn.  Về niên đại khảo cổ học thì chúng tôi nhận thấy các di tích này có niên đại tương đương về thời gian và không gian của truyền thuyết trong dân gian về thời đại Hùng Vương đó là vùng Phú Thọ Việt Trì và trung du củ đồng bằng Bắc bộ. Tất nhiên truyền thuyết không phải là lịch sử nhưng có chứa đựng một phần nào đấy của quá khứ nên nó được lưu truyền qua nhiều đời, như là một cách ghi nhớ cội nguồn của bất cứ cộng đồng người nào. Truyền thuyết về thời đại Hùng Vương cũng vậy.

Tư liệu khảo cổ học của chúng tôi cũng phải nghiên cứu cùng với tư liệu về văn hoá dân gian, dân tộc học và nhiều ngành khác, tài liệu khảo cổ học về văn hoá Đông sơn cho phép chúng ta tìm ra cốt lõi hay một chút sự thật của truyền thuyết về thời đại Hùng Vương: đã có nhiều bộ lạc người sinh sống ở vùng trung du – đồng bằng, biết dùng kim loại đồng, sắt làm vũ khí và công cụ sản xuất, biết trồng trọt, chăn nuôi, định cư thành làng tương đối lớn. Khi cần thiết thì liên kết với nhau để làm thuỷ lợi, trồng trọt khai phá đất đi hay chống ngoại xâm…  Đặc biệt những hình hoa văn trên trống đồng Đông Sơn còn phản ánh một số sinh hoạt đời thường hoặc lễ hội của cư dân nông nghiệp và ở vùng nhiệt đới có khá nhiều sông nước.

Có thể nhận biết từ đặc điểm của Văn hoá Đông Sơn những yếu tố dẫn đến sự hình thành một “nhà nước sơ khai” mà trong truyển thuyết của chúng ta đó là nước Văn Lang của Các Vua Hùng thì có ba yếu tố cơ bản. Yếu tố thứ nhất là yều tố ngoại sinh: mâu thuẫn và đấu tranh với thiên nhiên nhắm thích ứng với thiên nhiên, quan trọng nhất là hình thành hệ thồng thuỷ lợi cho canh tác nông nghiệp. Nó cũng là nguy cơ và thực tế đã xảy ra các xung đột giữa bộ lạc với nhau, theo truyển thuyết của Văn lang thì chúng ta có tới 13 bộ lạc.

Yếu tố thứ hai là yếu tố nội sinh sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh với kỹ thuật dùng cày được xem là tiên tiến, nhiều nghề thủ công ra đời, sản phẩm trở thành “hàng hoá” như đồ gốm, đồ đồng, đồ trang sức bằng đá…

Yếu tố ngoại sinh kết hợp với nội sinh ta cũng thấy thời kỳ này có quá trình giao lưu rộng rãi, trao đổi vật phẩm hàng hoá, tiếp thu kỹ thuật mới…Tất cả những điều đó làm cho xã hội có nền tảng kinh tế phát triển, nhu cầu cố kết để có sức mạnh quân sự, sự phân hoá xã hội ở một mức độ nhất định, nhu cầu mở rộng không gian sinh sống… là những yếu tố “cần” để một nhà nước sơ khai ra đời, như là hình thức Liên minh các bộ lạc mà người thủ lĩnh của Liên minh ấy được coi là “Vua”.

Mặc Lâm: Có hai khuynh hướng hiện nay, một là dùng các di vật khảo cổ để cố chính thức hóa hay hiện thực hóa các truyền thuyết về Thời đại Hùng Vương; hai là khuynh hướng nghiên cứu từ các cổ vật ấy xác định truyền thuyết đúng tới đâu. Bà chọn khuynh hướng nào?

TS Nguyễn Thị Hậu: Tôi không chọn khuynh hướng nào cả, đơn giản vì mục đích của Khảo cổ học không phải nhằm minh chứng cho cái gì đã có sẵn! Khảo cổ học nghiên cứu di tích di vật, căn cứ vào tính chất đặc điểm niên đại … chứng cứ như thế nào thì mình phải nói như thế. Cả hai khuynh hướng trên đều coi Truyền thuyết như là “sự thật lịch sử” nên làm cách nào cũng không có sự khách quan cần thiết của khoa học. Chúng ta đã biết truyển thuyết là một phần của quá khứ nhưng vì sao nó truyền đến bây giờ thì nó phải có một cái gì đó. Tôi nghĩ rằng kết quả nghiên cứu của khảo cổ học đa số đều tho khuynh hướng này tức là góp phần giải thích vì sao có truyền thuyết đó, truyền thuyết đó là như thế nào…cái thực chất của nó chứ không phải sự thật như thế nào.

Mặc Lâm: Quay lại với những ngày giỗ tổ mà chúng ta tổ chức hàng năm ở đền Hùng thì theo bà hệ thống di tích khảo cổ học chung quanh đền Hùng nói lên điều gì về đời sống cư dân thời đại các vua Hùng?

TS Nguyễn Thị Hậu: Di tích quan trọng nhất ở khu vực này là di tich Làng cả, Việt trì, và hệ thống hàng trăm di tích khảo cổ học dày đặc, tầng văn hoá tức là dấu tích con người để lại, dày nhiều mét. Các dấu tích cư trú định cư thành xóm làng đông đúc và lâu đời. Nhiều dấu tích của nghề nông trồng lúa nước, di tích Gò Đồng Đậu tìm thấy một hố đầy thóc, những di tích khác đều có thóc trong địa tầng, vỏ trấu trong mảnh gốm…, kỹ thuật nông nghiệp dùng cày đã khá phổ biến, giai đoạn trước chủ yếu dung cuốc với kỹ thuật canh tác nương, rẫy. Đây là kỹ thuật nông nghiệp tiến bộ của thời bấy giờ với sức kéo của động vật là con trâu. Xương trâu bò tìm thấy khá nhiều. Nông cụ có nhiều loại như cuốc, xẻng, cày… có những nông cụ dùng trong việc thuỷ lợi như đào kênh mương như mai, thuổng…

Từ lúc này, định cư và nông nghiệp trồng lúa nước bắt đầu trở thành truyền thống lâu đời của người Việt cổ.

Người xưa phát triển nghề làm gốm tạo ra các đồ dung sinh hoạt như nồi, vò nhiều kích thước. Có những di tích mảnh gốm dày đặc, độ nung gốm khá cao, trang trí hoa văn rất đẹp nhất là trong đồ gốm của văn hoá Phùng Nguyên vùng Phú Thọ. Hoa văn gốm Phùng Nguyên sau này được tái hiện trong nhiều đồ đồng Đông Sơn.

Đặc biệt kỹ thuật luyện kim đã đạt đến trình độ cao, nhất là các trống đồng Đông Sơn có hoa văn chạm khắc tinh xảo, sinh động, cho ta nhận biết nhiều sinh hoạt đời thường như giã gạo, săn thú, múa hay những nghi lễ, lễ hội… cảnh chèo thuyền, đánh trống đồng, trang phục của người thời Hùng Vương khá phong phú.

Cuối thời kỳ văn hoá Đông Sơn đã xuất hiện kỹ thuật rèn sắt, đã tìm thấy những lưỡi cày sắt ở vùng Cổ Loa, Hà Nội. Có lẽ đã có những xung đột giữa các bộ lạc, các cộng đồng nên vũ khí rất nhiều loại hình như giáo, kiếm, rìu, dao găm… số lượng lên đến hàng chục ngàn di vật…Nhiều loại hình mộ táng khác nhau cho thấy quan niệm về cái chết, tín ngưỡng về thế giới bên kia … khá đa dạng.

Dựa trên số lượng di tích, mật độ phân bố, quy mô di tích, loại hình di vật, địa bàn phân bố từ miền núi đến đồng bằng, từ trung du tới ven biển… các nhà nghiên cứu cho rằng đây là thời kỳ phát triển cao của nền văn minh kim loại, cơ sở quan trọng đề hình thành nhưng hình thức tổ chức xã hội cao hơn công xã nguyên thuỷ, đó là bộ lạc và liên minh bộ lạc.

Mặc Lâm: Giỗ tổ Hùng Vương dưới cái nhìn khảo cổ học cần được thực hiện thế nào cho đúng với tinh thần khoa học?

TS Nguyễn Thị Hậu: Giỗ tổ Hùng Vương là một tín ngưỡng phổ biến nhiều nhất ở vùng Phú Thọ - tương truyền là Đất tổ Hùng Vương. Sau này, từ đầu thế kỷ XX phổ biến rộng hơn ở vùng Bắc bộ. Đây là một loại hình tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, lễ hội diễn ra vảo tháng 3 âm lịch cũng là tháng kết thúc mùa khô bước vào mùa mưa – thời điểm của một chu kỳ nông nghiệp. Có thể coi lễ hội này nằm trong chuỗi lễ hội mùa xuân rất phổ biến ở miền Bắc. Vì những giá trị đó mà Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá Phi vật thể của thế giới.

Tôi cho rằng cần giữ gìn giá trị nguyên bản của di sản văn hoá này, bởi vì nếu chúng ta can thiệp, tổ chức không khéo, đưa quá nhiều yếu tố hiện đại vào lễ hội này thì lễ hội sẽ bị biến dạng nhanh chóng. Quan trọng là nó không còn là của DÂN, và do đó, nguy cơ để lại cho đời sau một di sản ít nhiều bị thay đổi giá trị.

Mặc Lâm: Xin cám ơn bà. 

GS. Ngô Đức Thọ: ĐỪNG ĐỂ CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU MONG NGÓNG TIỀN

Unknown | 7:56:00 AM | 0 comments
Đừng để các nhà nghiên cứu mong ngóng tiền 
PGS-TS Ngô Đức Thọ cho rằng khi một nhà nghiên cứu tự mang bị đi xin kinh phí để nghiên cứu thì việc nghiên cứu cũng sẽ ảnh hưởng. Đó không chỉ là cách đối xử không công bằng với di sản mà làm việc nghiên cứu bị băm nhỏ, không theo trình tự nào.
PGS-TS Ngô Đức Thọ sinh năm 1936 tại Hà Tĩnh. Ông từng nhiều năm làm việc tại Thư viện Quốc gia Hà Nội và giữ vai trò trưởng Ban Văn bản học tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam). 

Nhiều công trình chuyên khảo của ông được đánh giá là đặt nền móng cho một số ngành xã hội: Công trình Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại được GS Hà Văn Tấn đánh giá là đặt nền móng cho môn tị  húy học Việt Nam; công trình Cơ sở văn bản học Hán Nôm cũng được coi là một cuốn sách đặt nền móng cho ngành văn bản học Hán Nôm Việt Nam.

Ông cũng là dịch giả các tác phẩm Hán Nôm có giá trị như Đại Việt Sử ký toàn thư, Văn bia Tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử giám, Thiền uyển tập anh, Nam triều công nghiệp diễn chí, Đồng Khánh địa dư chí, Hoàng Việt hưng long chí...
Tròn một tuần trước, lễ trao Giải văn hóa Phan Châu Trinh lần thứ VII năm 2014 đã trao giải Dịch thuật cho PGS-TS Ngô Đức Thọ. Ông là cháu đích tôn của nhà chí sĩ yêu nước Ngô Đức Kế. Ông hiện là chuyên gia hàng đầu về Hán Nôm, là một nhà nghiên cứu chuyên sâu và tâm huyết.

Lý do Hội đồng quản lý Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh trao giải thưởng Dịch thuật cho PGS-TS Ngô Đức Thọ bởi những đóng góp xuất sắc của ông trong dịch thuật và truyền bá văn hóa Hán Nôm. Còn với PGS-TS Ngô Đức Thọ thì việc nhận giải thưởng lần này là “sự nhắc nhở với tôi trong nghề nghiệp nghiên cứu”. Để đến nay đã gần 80 tuổi nhưng mỗi ngày ông Thọ đều làm việc bởi trong con đường nghiên cứu, dịch thuật Hán Nôm ông vẫn thấy còn quá nhiều việc dở dang, nhiều việc cần làm…

Ngôn ngữ Hán Nôm vẫn là mảnh đất trống

Phóng viên: Niềm đam mê với những thư tịch Hán Nôm của ông đến từ ngày bé qua bà và ông nội. Việc sinh ra trong gia đình Nho học có phải là ưu thế cho việc tiếp tục nghiên cứu Hán Nôm của ông?

PGS-TS Ngô Đức Thọ: Sinh ra trong gia đình Nho học rất quan trọng. Nó không chỉ giúp tôi trong con đường học thuật sau này mà cả trong cuộc đời. Tôi luôn nhớ truyền thống đạo đức tốt đẹp của Nho gia. Từ hồi nhỏ, bà nội tôi dẫn đi học chữ Hán. Là vợ cụ nghè Ngô Đức Kế nên bà cũng là người rất am hiểu vấn đề văn hóa cổ. Những câu chuyện hằng ngày, với tôi, bạn bè hay bất cứ ai, bà luôn dặn “gì thì gì nước mình tiếng Nho không bỏ được”.

. Vậy theo ông tầm quan trọng của di sản Hán Nôm đối với lịch sử, văn hóa Việt như thế nào?

+ Di sản Hán Nôm vô cùng quan trọng. Đó là sản phẩm tinh thần quá khứ mà cha ông để lại. Tuy nhiên, cách hiểu di sản Hán Nôm hiện nay cũng phải bàn thêm.

Hiện cách hiểu về di sản Hán Nôm chia làm hai mảng: Hán Nôm là di sản về ngôn ngữ thể hiện trên chữ viết và ngôn ngữ nói; và Hán Nôm là di sản thư tịch bi chí thể hiện qua văn bia, sách vở. Chúng ta có nghiên cứu về di sản thư tịch Hán Nôm nhưng phần di sản về ngôn ngữ vẫn chưa được lưu tâm nhiều. Trong khi đó trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của chúng ta hiện nay khoảng 60%-70% thành phần từ Hán Việt. Chưa nghiên cứu về âm Hán Việt trong phần ngôn ngữ Hán Nôm là thiếu sót vô cùng.

. Thiếu sót trong nghiên cứu âm Hán Việt có dẫn đến hậu quả nhãn tiền nào không hay chỉ là thiếu sót của việc nghiên cứu, thưa ông?

+ Chính việc chưa hiểu hết ngôn ngữ Hán Việt trong lời nói hằng ngày nên nhiều thế hệ giờ dùng từ Hán Việt tương đối tự phát. Ở nhà trường học không được bao nhiêu dẫn đến dùng từ Hán Việt sai. Dùng sai khiến nhận thức sai, coi từ Hán Việt là của Trung Quốc. Từ việc tưởng chừng nhỏ như thế mà các vấn đề di sản văn hóa bị hiểu không đầy đủ. Đó là trách nhiệm của chúng ta, khi khai thác tương đối tốt thư tịch nhưng lại bị hụt hẫng về mặt ngôn ngữ.

Thiếu chỉ đạo về tinh thần học thuật

. So với các chuyên ngành khoa học xã hội khác, Hán Nôm là chuyên ngành không thu hút nhiều thế hệ trẻ học, nghiên cứu, vì sao vậy, thưa ông?

+ Việc này hơi khó để đánh giá. Nếu nhìn tổng quan thì người trẻ không quan tâm đến nhiều nhưng khi bước vào những viện, cơ quan nghiên cứu chuyên biệt như Viện Hán Nôm, ĐH Sư phạm Hà Nội… vẫn có nhiều anh chị em trẻ say mê nghiên cứu. Tuy nhiên, sự say mê như thế đã phải là mong muốn chưa thì còn vấn đề.

PGS-TS Ngô Đức Thọ đọc diễn từ nhận giải Dịch thuật tại lễ trao Giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh vào ngày 24-3 tại TP.HCM. Ảnh: QUỲNH TRANG

Các cơ quan, viện chưa có chính sách khích lệ những nhà nghiên cứu trẻ. Ngành chúng tôi lương bổng hạn chế, chỉ có lương, không có bổng nên có người trẻ nào cố theo thì họ phải cố gắng hết sức để thoát khỏi gánh nặng cơm áo.

Nhưng quan trọng hơn, môi trường học thuật của chúng ta chưa có sự giao lưu. Thời tôi, những lớp người nghiên cứu cao tuổi, trẻ tuổi gặp nhau nhiều, còn giờ thì ai làm việc đó, rất âm thầm mà thiếu sự trò chuyện kích thích nghiên cứu.

. Nhưng đâu chỉ Hán Nôm, nhiều ngành khoa học xã hội khác cũng đều đang bị kinh tế thị trường đè bẹp…

+ Đúng vậy. Khoan nói đến chính sách từ phía Nhà nước, ngay việc xã hội hóa đã dành hàng ngàn tỉ đồng cho việc xây chùa, thiền viện lớn…, trong khi đó một chút đỉnh cho nghiên cứu văn hóa Hán Nôm hay khoa học xã hội không ai chú ý. Tôi chỉ mong sao đừng nên để những người nghiên cứu tự mang bị đi xin tiền.

Khi họ tự mang bị đi xin thì việc nghiên cứu cũng sẽ ảnh hưởng. Nhà nghiên cứu lúc đó chỉ chọn đề tài nghiên cứu dựa trên cái gì họ yêu thích chứ không chọn nghiên cứu theo một trình tự nào. Đây không chỉ là cách đối xử không công bằng với di sản mà một phần từ đó mà việc nghiên cứu bị băm nhỏ, không theo trình tự nào.

. Trong suốt 50 năm qua, ngành Hán Nôm đã từng được lưu tâm lần nào để có những khoản đầu tư nghiên cứu thích đáng?

+ Ông Võ Văn Kiệt là người rất chú ý đến việc nghiên cứu Hán Nôm. Đó là khoảng năm 1991, sau chuyến thăm Malaysia, một đất nước có văn hóa Hán ảnh hưởng như Việt Nam. Vừa xuống sân bay Nội Bài, ông Kiệt đã gọi điện thoại để đến thăm Viện Hán Nôm. Ngay sau đó ông Kiệt chỉ đạo viện xây dựng đề án nghiên cứu Hán Nôm và cấp ngay 1 tỉ đồng cho việc nghiên cứu. Chúng tôi không dám xài nhiều mà 1 tỉ đồng đó chia làm nhiều năm nghiên cứu (với 1 tỉ đồng, Dự án điều tra sưu tầm của Viện Hán Nôm kéo dài khoảng tám năm – PV). Từ số tiền đó các nhà nghiên cứu trong viện đi thực địa, sưu tầm và có rất nhiều thành quả. Còn lại chưa bao giờ Viện Hán Nôm được một khoản nghiên cứu nào mang tính đề án như thế từ Nhà nước cả. Để các nhà nghiên cứu mong ngóng tiền là quá tội nghiệp!

. Xin cảm ơn ông.

QUỲNH TRANG thực hiện